TIN TỨC

Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-11-06 11:30:14
mail facebook google pos stwis
601 lượt xem

T.S. NGUYỄN THỊ NHÀN
(Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023)
 

Tôi không biết sẽ bắt đầu từ đâu, viết gì trước, khi ngôn từ líu ríu và những tứ thơ, những vần thơ đẹp của nữ sĩ Triệu Kim Loan đang chảy trong suy ngẫm?

Chỉ là một độc giả bình thường, yêu thơ ca và trân quí, nâng niu những tài hoa sáng tạo, còn để phẩm bình về thi ca lại là câu chuyện khác.

Tuy vậy, tôi cứ mạo muội nhờ chút câu chữ nói hộ cảm xúc chân thành, những tri nhận cá nhân tôi khi đọc Đối thoại đêm.

Phía trước tôi đã có “công trình” đầy đặn, giới thiệu tập thơ này. Đó là bài “tựa” công phu ở đầu tập của nhà thơ Bùi Phan Thảo. Cuối tập có “lời bạt” của nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã về chùm thơ Đà Lạt. Họ đều sành thơ, tri âm, tri kỷ của chị Loan, họ viết về chị ắt là chí tình, chí thơ!

Đối thoại đêm, như tôi luôn hình dung đâu đó, gần xa, một người nữ thanh xuân, tươi trẻ, lá đang biếc mùa xanh; lại như hiện hữu một cây đời trải qua dông gió dập vùi, những buồn vui, khắc khoải, những nghiệm sinh còn mất; dang dở và khao khát vươn về phía thiện mỹ trần gian. Chân dung người nữ trong thơ đậm sắc màu văn hóa cội nguồn. 

Người nữ ấy đi trên con đường tình yêu. Chị yêu thiên nhiên, yêu quê hương xứ sở, chị yêu người,…

Quê hương nơi chị sinh ra và lớn lên, trong xa cách, tha phương, nỗi đau đáu không cùng. Niềm yêu quê chưa bao giờ vơi cạn, ngủ yên. Nó thao thức, luôn đâm chồi nụ tái sinh, như rong “rêu nảy mầm lối cũ”. Nó xót xa trong thiên họa dập vùi, hình hài quê dấu yêu biến dạng, phận người trồi sụt, nổi nênh, sinh tử, nghèo đói: Nắng òa khóc núi chơ vơ/ Rừng loang lổ cháy suối trơ cạn dòng; Đầu nguồn con sóng mồ côi/ Đục ngầu cuối bãi, phận người lênh đênh (Thương quê). Và dĩ nhiên cả những trong trẻo, yên bình như quê hương nguyên sơ bao đời nay vẫn vậy. Đó là một “trung du lấp lánh” trong thương xa của một người con sống xa quê luôn vọng niệm. Đây là một phố núi thời đèn dầu mà tối “chẳng thắp đèn”; là hình ảnh cái “ngõ hun hút”; là ngọt ngào giọng mẹ ầu ơ theo nhịp võng “nhặt thưa dịu nồng”; là hương hoa cau ngan ngát “đợi nắng thắp sao hôm”: là âm thanh đồng quê quen thuộc bao đời trong “sáo diều cao vút”. Đặc biệt, một miền quê đất cằn sỏi đá vẫn thầm gieo những hạt mầm khỏe khoắn, khao khát hiến dâng, khao khát vươn lên, để một ngày cây trổ hoa, kết trái ngọt ngào cho đời: Khát vọng xanh em giấu dưới cọ mềm / Đồi đá sỏi nghiêng em – ngày trổ biếc (Khát vọng xanh).

Trái tim nghệ sĩ luôn nhạy cảm, vọng động trước những éo le, bất trắc của phận người. Người thơ trong Đối thoại đêm luôn là như thế. Tôi ấn tượng với các thi phẩm chị viết về thân phận người nữ trong tập này: Gánh đàn bà, Khỏa sóng đời, Đừng gió, Mẹ chồng tôi, Bóng mẹ, Nhang khói dẫn đường con… Phải chăng nẻo nữ nhân, đàn bà xưa nay, luôn là những thăm thẳm đa đoan? Họ ngoài đời và trong nghệ thuật nói chung, trong văn chương luôn ám ảnh nghệ sĩ.

Tôi trân quí, sẻ chia cảm thông cái mong manh của người nữ trong Đừng gió. Những chênh chao, xao lòng từ những kỷ niệm đẹp xưa cũ dội về, hay một bóng hình nào đó gặp gỡ giữa đường đời là chuyện không hiếm. Ranh giới giữa đôi bờ hạnh phúc và bất hạnh cũng mong manh yếu ớt như tâm hồn người nữ. Con thuyền chòng chành rồi chìm trong sóng gió hay bình yên quay về bến bờ? Tự cật vấn, tự tình khúc gọi đò, sang đò, người nữ đã bỏ lại những mê dụ khoảnh khắc để con thuyền quay về bến quen, vun trồng cây trái xum xuê vườn nhà. Nghe thì ngỡ như nhẹ tênh mà người trong cuộc vật vã, khắc khoải vượt thoát góc u uẩn, đa đoan chính mình: Em lựa chiều sóng đổ/ Vỗ tròn bờ đa đoan/ Phù sa em ngút ngàn/ Bồi đắp miền chồng vợ/ Hạnh phúc ngàn hoa nở/ Trái chín đầy tay thơm (Đừng gió).

Thơ Triệu Kim Loan luôn là những người nữ lấy vị tha, lấy hy sinh những niềm vui vị kỷ để đổi lấy hạnh phúc cho mọi người. Dù họ là tình nhân, là người vợ hay người mẹ. Nết hạnh truyền thống đó khiến người nữ trong thơ chị nghiêng về chân dung nữ nhân thời xưa, vừa u buồn vừa tội tình, xa xót, vừa cảm phục: Những mùa dài buốt lạnh/ Chị và đêm lưu đày/…, Đêm trăng tàn giã gạo/ Cố quên mình đang xanh…, Vùi đau vào nốt nhớ/ Gió thốc miền trống không (Khỏa sóng đời).

Chị viết về Gánh đàn bà Những người nữ cứ thương khó, tần tảo lặng lẽ trên đời như chẳng sống. Họ như cây mọc lên từ sỏi đá cỗi cằn, không tưới tắm mà tự tươi tốt lạ thường, phi thường. Sức sống ấy được nuôi dưỡng từ đức hy sinh vị tha, tự suối nguồn đạo hạnh trong trẻo nơi dân tộc ngàn đời. Không kỳ vĩ, không trời cao biển rộng, không từ bình yên nhung lụa, người đàn bà trần gian lặn ngập trong những nhọc nhằn gánh nặng mưu sinh cơm áo; họ gánh chồng con trong gắng gỏi tạo dựng đời sống tinh thần, quên thân để đổi nụ cười êm ấm gia đình; họ tự nhuộm đắng đót mình cho ngọt bùi thơm thảo phía người thân; họ quên sống hôm nay vì một đời sống tốt đẹp phía tương lai … Họ tồn tại trong nghĩa lý quên sống. Họ chỉ như cát bụi vô hình. Họ chỉ luôn hao khuyết. Như đôi bờ sông bên lở, bên bồi, phía nữ nhân luôn nhận về bên lở. Bờ bãi bồi tròn đầy, mỡ màu, họ dành tặng chồng con. Viết về giới mình như vậy, thơ chị có nhức nhối những bất nhẫn và những phận bạc dưới trời? Trong nỗi lặng thầm nhẫn nhịn bao dung, ắt chứa những sầu đau cô lẻ! Hóa ra, nước mắt lặn vào trong thì muôn đời vẫn thế. Hồ Xuân Hương xưa, “khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt”, “cô Kiều khóc trên bốn dây ly biệt” khi bán mình chuộc cha. Dù cho nàng dứt tình và “hạ tình” như thế, song đêm trao duyên, chữ tình nức nở, thật bi ai… Gánh đàn bà thời nào cũng vậy! Họ gánh đa đoan trên mảnh thân gầy, đi con đường dằng dặc buồn, xuyên suốt ngàn năm lễ giáo ngặt nghèo. Vẫn một sắc màu thủy chung, lam làm, thương khó, nhẫn nhịn, vị tha mà bước qua vị kỷ: Cơn lốc cuộc đời cuộn xoáy những trái ngang. Người đàn bà tất tả trong khó nhọc mưu sinh…Họ giấu nỗi đau sau những nụ cười… đối diện đêm hàn đón ánh bình minh (Gánh đàn bà).

Viết đến Gánh đàn bà thì dường như, những dáng hình nữ khác trong thơ Triệu Kim Loan giống chồi nhánh chung một gốc. Bởi suy cho cùng, vì một sắc màu yêu thương vị tha vô hạn mà người đàn bà đã quên đi bản thân ở trên đời. Những run rẩy, nồng nàn yêu đương, nỗi nhớ thương đầy vơi hay niềm đau vẫn chỉ nghiêng về phía trống vắng bản thân mình: Em nồng nàn - một ngăn nhớ - riêng anh (Mưa thơm ngày cũ); Cố quên mình đang xanh…/ Vì các con - thôi đành (Khỏa sóng đời).

Người nữ tự tình, tự vui buồn, tự vụn vỡ, tự thấy bẽ bàng, tự đắng đót: Em thương mình buốt gió/ Ngọn nến tàn buốt lệ suốt quanh năm (Dấu chấm hỏi), Dẫu ngày mai trắng tay câu duyên nợ/ Em vẫn mình xa xót. Một hoang xưa (Ngược gió) Xa xót quá/ ngày tình yêu góa bụa/ Tự ru mình sao chua chát / cứ lên ngôi… Một ngày - anh thành khách trọ/ Một ngày đau/ Em vụn vỡ/dưới chân đền (Ngày tình yêu góa bụa).

Và rồi, họ tự chữa lành vết đau, tự đứng lên và tiếp tục kiếm tìm trong đợi chờ hy vọng, khát khao vẫn xanh ngời: Hoa đợi ngày biếc tím/ Bến đợi cánh buồm nâu (Chợ tình), Giữa dòng đời xô lệch / Lòng vẫn nguyên ánh rằm (Ngược mùa), Em qua mùa tuổi chín/ Bão đời trôi phũ phàng/ Hình như còn ủ kín / Nỗi khát tìm mênh mang (Ríu ran mùa).

Tôi đã gặp những người nữ vừa u sầu, vừa khao khát sống như thế trong Đối thoại đêm. Tôi cứ liên tưởng, trong cuộc người giữa trần ai này, những sự tình như thế có gọi tên là mảnh cô đơn trong nhu mềm và cứng cỏi ? Người nữ mềm như cỏ, người nữ vi diệu như nước nhưng trong họ vẫn cất giữ phẩm chất tùng bách để chống chọi, không quị ngã giữa đời, để giữ lửa tình yêu cuộc sống. Âm và dương, mặt trời và mặt trăng, sao hôm và sao mai… tưởng như cơ hồ đối lập mà không thể thiếu khuyết làm nên chân dung thế giới và cuộc sống.

Đối thoại đêm có 50 thi phẩm. Dòng chảy tràn là tình yêu thương con người. Tình yêu lứa đôi nhiều “sóng ở đáy sông”. Thân phận tình yêu gắn với nụ cười và nước mắt, những day trở kiếm tìm cái đẹp và hạnh phúc.

Tôi yêu một hồn thơ nữ nhạy cảm, dịu dàng, tinh tế trước thiên nhiên, gọi ngôn từ họa những hình ảnh đẹp; bông “hoa nắng”, “sắc phượng bung lửa”, “hạt chiều bay”, “vệt nắng tím”, “Sông như võng”, “cải dịu dàng gối ngực triền đê”…“lá trở mình”, “mùi đất trời nồng nã”…

Tôi cũng sẻ chia lối suy tư sâu sắc trong một số liên tưởng so sánh ám ảnh, ấn tượng. Chị ví phận mồ côi như “lá héo bên đường” (Mồ côi); ví vạt hoa cải vàng triền đê như người nữ dịu dàng mềm mại, chút nũng nịu “Cải dịu dàng gối ngực triền đê” (Bùa mê hoa cải); chiếc lá rụng về đất mà vui niềm vui tái sinh trong lặng thầm tận hiến; “Mắt lá hướng lên trời hát khẽ/ Tận hiến mình cho chồi biếc mai sau”… (Mắt lá )…

Những cảnh sắc thiên nhiên luôn được thi sĩ thổi vào đó những đa điệu “tâm hồn” nhờ nhân hóa: “nắng khóc”, “vạt nắng đùa”, “sóng phân vân”, “lá trở mình”, “nắng thương mưa”, “nén nhang trầm thương nhớ đầy vơi, “Hoa đợi ngày biếc tím”…

Tôi nâng niu những thi phẩm đẹp giản dị mà sâu sắc, tứ thơ sáng, dù có khi không hẳn mới, hay sáng tạo. Bởi nó thật rưng rưng, chạm đến nỗi người nhân bản, nhân văn; Gánh đàn bà, Khỏa sóng đời, Mồ côi, Thương quê, Ngày tình yêu góa bụa, Rêu nảy mầm lối cũ, Đừng gió, Chợ tình… Có lẽ, tôi thiên vị cái đẹp cổ điển, giản dị mà sâu sắc thi điệu khúc ca dao quê kiểng!

Độc thoại đêm sẽ thật thú vị, hoàn hảo, giá như một số thi phẩm đã tinh tế, ngôn từ đẹp, song, độc giả muốn nhận diện tứ thơ sáng hơn, cách viết bớt đi chút cầu kỳ, tập trung hơn. Mặc dù, ở những sáng tác đó, nhan đề mách bảo khá rõ: (Ngày em đến, Chiều xanh gió, Giấc mơ em,..). Nhưng, mơ ước luôn là cái đẹp để ta vươn tới hoàn thiện. Từ Khoảng lặng, Suy tư chiều, Khát vọng xanh đến Đối thoại đêm, nhà thơ Triệu Kim Loan đã đi qua chính mình, suy tư sâu lắng hơn, ngày càng tinh tế. Chúng ta mong qua Đối thoại đêm, người thơ Triệu Kim Loan luôn đến được, có được những bình minh, đam mê sáng tạo trên con đường chị đang đi tới nhiều ánh sáng.

  Viết tại miền Kinh Bắc, mùa heo may Quý Mão.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm