TIN TỨC

Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-11-05 07:17:52
mail facebook google pos stwis
1159 lượt xem

T.S. NGUYỄN THỊ NHÀN
(Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023)
 

Tôi không biết sẽ bắt đầu từ đâu, viết gì trước, khi ngôn từ líu ríu và những tứ thơ, những vần thơ đẹp của nữ sĩ Triệu Kim Loan đang chảy trong suy ngẫm?

Chỉ là một độc giả bình thường, yêu thơ ca và trân quí, nâng niu những tài hoa sáng tạo, còn để phẩm bình về thi ca lại là câu chuyện khác.

Tuy vậy, tôi cứ mạo muội nhờ chút câu chữ nói hộ cảm xúc chân thành, những tri nhận cá nhân tôi khi đọc Đối thoại đêm.

Phía trước tôi đã có “công trình” đầy đặn, giới thiệu tập thơ này. Đó là bài “tựa” công phu ở đầu tập của nhà thơ Bùi Phan Thảo. Cuối tập có “lời bạt” của nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã về chùm thơ Đà Lạt. Họ đều sành thơ, tri âm, tri kỷ của chị Loan, họ viết về chị ắt là chí tình, chí thơ!

Đối thoại đêm, như tôi luôn hình dung đâu đó, gần xa, một người nữ thanh xuân, tươi trẻ, lá đang biếc mùa xanh; lại như hiện hữu một cây đời trải qua dông gió dập vùi, những buồn vui, khắc khoải, những nghiệm sinh còn mất; dang dở và khao khát vươn về phía thiện mỹ trần gian. Chân dung người nữ trong thơ đậm sắc màu văn hóa cội nguồn. 

Người nữ ấy đi trên con đường tình yêu. Chị yêu thiên nhiên, yêu quê hương xứ sở, chị yêu người,…

Quê hương nơi chị sinh ra và lớn lên, trong xa cách, tha phương, nỗi đau đáu không cùng. Niềm yêu quê chưa bao giờ vơi cạn, ngủ yên. Nó thao thức, luôn đâm chồi nụ tái sinh, như rong “rêu nảy mầm lối cũ”. Nó xót xa trong thiên họa dập vùi, hình hài quê dấu yêu biến dạng, phận người trồi sụt, nổi nênh, sinh tử, nghèo đói: Nắng òa khóc núi chơ vơ/ Rừng loang lổ cháy suối trơ cạn dòng; Đầu nguồn con sóng mồ côi/ Đục ngầu cuối bãi, phận người lênh đênh (Thương quê). Và dĩ nhiên cả những trong trẻo, yên bình như quê hương nguyên sơ bao đời nay vẫn vậy. Đó là một “trung du lấp lánh” trong thương xa của một người con sống xa quê luôn vọng niệm. Đây là một phố núi thời đèn dầu mà tối “chẳng thắp đèn”; là hình ảnh cái “ngõ hun hút”; là ngọt ngào giọng mẹ ầu ơ theo nhịp võng “nhặt thưa dịu nồng”; là hương hoa cau ngan ngát “đợi nắng thắp sao hôm”: là âm thanh đồng quê quen thuộc bao đời trong “sáo diều cao vút”. Đặc biệt, một miền quê đất cằn sỏi đá vẫn thầm gieo những hạt mầm khỏe khoắn, khao khát hiến dâng, khao khát vươn lên, để một ngày cây trổ hoa, kết trái ngọt ngào cho đời: Khát vọng xanh em giấu dưới cọ mềm / Đồi đá sỏi nghiêng em – ngày trổ biếc (Khát vọng xanh).

Trái tim nghệ sĩ luôn nhạy cảm, vọng động trước những éo le, bất trắc của phận người. Người thơ trong Đối thoại đêm luôn là như thế. Tôi ấn tượng với các thi phẩm chị viết về thân phận người nữ trong tập này: Gánh đàn bà, Khỏa sóng đời, Đừng gió, Mẹ chồng tôi, Bóng mẹ, Nhang khói dẫn đường con… Phải chăng nẻo nữ nhân, đàn bà xưa nay, luôn là những thăm thẳm đa đoan? Họ ngoài đời và trong nghệ thuật nói chung, trong văn chương luôn ám ảnh nghệ sĩ.

Tôi trân quí, sẻ chia cảm thông cái mong manh của người nữ trong Đừng gió. Những chênh chao, xao lòng từ những kỷ niệm đẹp xưa cũ dội về, hay một bóng hình nào đó gặp gỡ giữa đường đời là chuyện không hiếm. Ranh giới giữa đôi bờ hạnh phúc và bất hạnh cũng mong manh yếu ớt như tâm hồn người nữ. Con thuyền chòng chành rồi chìm trong sóng gió hay bình yên quay về bến bờ? Tự cật vấn, tự tình khúc gọi đò, sang đò, người nữ đã bỏ lại những mê dụ khoảnh khắc để con thuyền quay về bến quen, vun trồng cây trái xum xuê vườn nhà. Nghe thì ngỡ như nhẹ tênh mà người trong cuộc vật vã, khắc khoải vượt thoát góc u uẩn, đa đoan chính mình: Em lựa chiều sóng đổ/ Vỗ tròn bờ đa đoan/ Phù sa em ngút ngàn/ Bồi đắp miền chồng vợ/ Hạnh phúc ngàn hoa nở/ Trái chín đầy tay thơm (Đừng gió).

Thơ Triệu Kim Loan luôn là những người nữ lấy vị tha, lấy hy sinh những niềm vui vị kỷ để đổi lấy hạnh phúc cho mọi người. Dù họ là tình nhân, là người vợ hay người mẹ. Nết hạnh truyền thống đó khiến người nữ trong thơ chị nghiêng về chân dung nữ nhân thời xưa, vừa u buồn vừa tội tình, xa xót, vừa cảm phục: Những mùa dài buốt lạnh/ Chị và đêm lưu đày/…, Đêm trăng tàn giã gạo/ Cố quên mình đang xanh…, Vùi đau vào nốt nhớ/ Gió thốc miền trống không (Khỏa sóng đời).

Chị viết về Gánh đàn bà Những người nữ cứ thương khó, tần tảo lặng lẽ trên đời như chẳng sống. Họ như cây mọc lên từ sỏi đá cỗi cằn, không tưới tắm mà tự tươi tốt lạ thường, phi thường. Sức sống ấy được nuôi dưỡng từ đức hy sinh vị tha, tự suối nguồn đạo hạnh trong trẻo nơi dân tộc ngàn đời. Không kỳ vĩ, không trời cao biển rộng, không từ bình yên nhung lụa, người đàn bà trần gian lặn ngập trong những nhọc nhằn gánh nặng mưu sinh cơm áo; họ gánh chồng con trong gắng gỏi tạo dựng đời sống tinh thần, quên thân để đổi nụ cười êm ấm gia đình; họ tự nhuộm đắng đót mình cho ngọt bùi thơm thảo phía người thân; họ quên sống hôm nay vì một đời sống tốt đẹp phía tương lai … Họ tồn tại trong nghĩa lý quên sống. Họ chỉ như cát bụi vô hình. Họ chỉ luôn hao khuyết. Như đôi bờ sông bên lở, bên bồi, phía nữ nhân luôn nhận về bên lở. Bờ bãi bồi tròn đầy, mỡ màu, họ dành tặng chồng con. Viết về giới mình như vậy, thơ chị có nhức nhối những bất nhẫn và những phận bạc dưới trời? Trong nỗi lặng thầm nhẫn nhịn bao dung, ắt chứa những sầu đau cô lẻ! Hóa ra, nước mắt lặn vào trong thì muôn đời vẫn thế. Hồ Xuân Hương xưa, “khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt”, “cô Kiều khóc trên bốn dây ly biệt” khi bán mình chuộc cha. Dù cho nàng dứt tình và “hạ tình” như thế, song đêm trao duyên, chữ tình nức nở, thật bi ai… Gánh đàn bà thời nào cũng vậy! Họ gánh đa đoan trên mảnh thân gầy, đi con đường dằng dặc buồn, xuyên suốt ngàn năm lễ giáo ngặt nghèo. Vẫn một sắc màu thủy chung, lam làm, thương khó, nhẫn nhịn, vị tha mà bước qua vị kỷ: Cơn lốc cuộc đời cuộn xoáy những trái ngang. Người đàn bà tất tả trong khó nhọc mưu sinh…Họ giấu nỗi đau sau những nụ cười… đối diện đêm hàn đón ánh bình minh (Gánh đàn bà).

Viết đến Gánh đàn bà thì dường như, những dáng hình nữ khác trong thơ Triệu Kim Loan giống chồi nhánh chung một gốc. Bởi suy cho cùng, vì một sắc màu yêu thương vị tha vô hạn mà người đàn bà đã quên đi bản thân ở trên đời. Những run rẩy, nồng nàn yêu đương, nỗi nhớ thương đầy vơi hay niềm đau vẫn chỉ nghiêng về phía trống vắng bản thân mình: Em nồng nàn - một ngăn nhớ - riêng anh (Mưa thơm ngày cũ); Cố quên mình đang xanh…/ Vì các con - thôi đành (Khỏa sóng đời).

Người nữ tự tình, tự vui buồn, tự vụn vỡ, tự thấy bẽ bàng, tự đắng đót: Em thương mình buốt gió/ Ngọn nến tàn buốt lệ suốt quanh năm (Dấu chấm hỏi), Dẫu ngày mai trắng tay câu duyên nợ/ Em vẫn mình xa xót. Một hoang xưa (Ngược gió) Xa xót quá/ ngày tình yêu góa bụa/ Tự ru mình sao chua chát / cứ lên ngôi… Một ngày - anh thành khách trọ/ Một ngày đau/ Em vụn vỡ/dưới chân đền (Ngày tình yêu góa bụa).

Và rồi, họ tự chữa lành vết đau, tự đứng lên và tiếp tục kiếm tìm trong đợi chờ hy vọng, khát khao vẫn xanh ngời: Hoa đợi ngày biếc tím/ Bến đợi cánh buồm nâu (Chợ tình), Giữa dòng đời xô lệch / Lòng vẫn nguyên ánh rằm (Ngược mùa), Em qua mùa tuổi chín/ Bão đời trôi phũ phàng/ Hình như còn ủ kín / Nỗi khát tìm mênh mang (Ríu ran mùa).

Tôi đã gặp những người nữ vừa u sầu, vừa khao khát sống như thế trong Đối thoại đêm. Tôi cứ liên tưởng, trong cuộc người giữa trần ai này, những sự tình như thế có gọi tên là mảnh cô đơn trong nhu mềm và cứng cỏi ? Người nữ mềm như cỏ, người nữ vi diệu như nước nhưng trong họ vẫn cất giữ phẩm chất tùng bách để chống chọi, không quị ngã giữa đời, để giữ lửa tình yêu cuộc sống. Âm và dương, mặt trời và mặt trăng, sao hôm và sao mai… tưởng như cơ hồ đối lập mà không thể thiếu khuyết làm nên chân dung thế giới và cuộc sống.

Đối thoại đêm có 50 thi phẩm. Dòng chảy tràn là tình yêu thương con người. Tình yêu lứa đôi nhiều “sóng ở đáy sông”. Thân phận tình yêu gắn với nụ cười và nước mắt, những day trở kiếm tìm cái đẹp và hạnh phúc.

Tôi yêu một hồn thơ nữ nhạy cảm, dịu dàng, tinh tế trước thiên nhiên, gọi ngôn từ họa những hình ảnh đẹp; bông “hoa nắng”, “sắc phượng bung lửa”, “hạt chiều bay”, “vệt nắng tím”, “Sông như võng”, “cải dịu dàng gối ngực triền đê”…“lá trở mình”, “mùi đất trời nồng nã”…

Tôi cũng sẻ chia lối suy tư sâu sắc trong một số liên tưởng so sánh ám ảnh, ấn tượng. Chị ví phận mồ côi như “lá héo bên đường” (Mồ côi); ví vạt hoa cải vàng triền đê như người nữ dịu dàng mềm mại, chút nũng nịu “Cải dịu dàng gối ngực triền đê” (Bùa mê hoa cải); chiếc lá rụng về đất mà vui niềm vui tái sinh trong lặng thầm tận hiến; “Mắt lá hướng lên trời hát khẽ/ Tận hiến mình cho chồi biếc mai sau”… (Mắt lá )…

Những cảnh sắc thiên nhiên luôn được thi sĩ thổi vào đó những đa điệu “tâm hồn” nhờ nhân hóa: “nắng khóc”, “vạt nắng đùa”, “sóng phân vân”, “lá trở mình”, “nắng thương mưa”, “nén nhang trầm thương nhớ đầy vơi, “Hoa đợi ngày biếc tím”…

Tôi nâng niu những thi phẩm đẹp giản dị mà sâu sắc, tứ thơ sáng, dù có khi không hẳn mới, hay sáng tạo. Bởi nó thật rưng rưng, chạm đến nỗi người nhân bản, nhân văn; Gánh đàn bà, Khỏa sóng đời, Mồ côi, Thương quê, Ngày tình yêu góa bụa, Rêu nảy mầm lối cũ, Đừng gió, Chợ tình… Có lẽ, tôi thiên vị cái đẹp cổ điển, giản dị mà sâu sắc thi điệu khúc ca dao quê kiểng!

Độc thoại đêm sẽ thật thú vị, hoàn hảo, giá như một số thi phẩm đã tinh tế, ngôn từ đẹp, song, độc giả muốn nhận diện tứ thơ sáng hơn, cách viết bớt đi chút cầu kỳ, tập trung hơn. Mặc dù, ở những sáng tác đó, nhan đề mách bảo khá rõ: (Ngày em đến, Chiều xanh gió, Giấc mơ em,..). Nhưng, mơ ước luôn là cái đẹp để ta vươn tới hoàn thiện. Từ Khoảng lặng, Suy tư chiều, Khát vọng xanh đến Đối thoại đêm, nhà thơ Triệu Kim Loan đã đi qua chính mình, suy tư sâu lắng hơn, ngày càng tinh tế. Chúng ta mong qua Đối thoại đêm, người thơ Triệu Kim Loan luôn đến được, có được những bình minh, đam mê sáng tạo trên con đường chị đang đi tới nhiều ánh sáng.

  Viết tại miền Kinh Bắc, mùa heo may Quý Mão.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Mai Quỳnh Nam và một phía
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về thơ Mai Quỳnh Nam
Xem thêm
Một đêm trăng không dễ có ở trên đời!
Bài viết của nhà văn Tuấn Trần.
Xem thêm
Một vọng âm quá khứ hào hùng nhưng lắm đau thương
Đọc “Hòa âm đêm”, Nxb Hội Nhà văn, 2024 của Trương Tuyết Mai
Xem thêm
Khám phá vương triều Tiền Lý qua tiểu thuyết lịch sử
Thượng tá, nhà văn Phùng Văn Khai là người khá đa di năng. Từ lúc bước vào văn nghiệp, anh viết kí, truyện ngắn, làm thơ, cày báo… đều đặn, thuộc dạng “nhạc nào cũng nhảy được” và nhảy khá hay.
Xem thêm
Triệu hạt tâm hồn rót đầy biển tình yêu
Võ Thị Như Mai đọc PHẢI CHI MÂY TRẮNG KHÔNG NGANG NGÕ, Nguyễn Đức Quận, NXB Hội nhà văn, 2024.
Xem thêm
Tiểu luận Võ Quốc Việt: Vài cảm nhận về Cuộc thi Thơ 1-2-3
Cuộc thi Thơ 1-2-3 (The 1-2-3 Poetry Style/ Phannist Poetry) năm 2024 – 2025 đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo các tác giả trong lẫn ngoài nước và đã công bố kết quả. Nhà lý luận phê bình, nhà thơ Võ Quốc Việt – Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam thay mặt Ban Chung khảo đã có bài tiểu luận công phu, sâu sắc mang tính tổng kết về cuộc thi. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Xem thêm
Đọc tập thơ Dọc đường máu của Vương Cường
Nguyên Hùng giới thiệu tập thơ mới của Tiến sĩ nhà thơ Vương Cường
Xem thêm
Vũ điệu tái sinh trong từng cơn đau
Bái viết về tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau” tập thơ của Trịnh Bích Ngân (NXB Hội Nhà văn, quý II, 2024)
Xem thêm
“Ai cũng có ngày xưa” của nhà thơ Trần Duy Hiển
Gió vẫn thổi suốt chiều dài trận mạc/ Người nhẹ nhàng nằm lại lúc vượt sông
Xem thêm
“Theo chồng về quê” của Mai Khoa – một bài thơ hay
Bởi yêu chồng từ lúc mới bén duyên/ Như tình biển yêu thuyền thương nhớ
Xem thêm
Trò Chuyện Với Thiên Thần – Những Tai Họa Thế Giới & Giấc mơ Việt Nam
Triết gia Hy Lạp Platon đã nói: “Thước đo của một con người là xem cách anh ta làm gì với quyền lực”. Thế nhưng, có rất nhiều người có quyền, vì lòng tham và ích kỷ cá nhân nên đã hủy hoại nhân cách và đất nước của họ (TCVTT/ Trương Văn Dân)
Xem thêm
Thi ca đương đại nhìn từ hệ hình nghệ thuật và chất suy tưởng của thơ
Sáng ngày 12.02.2025 tại Ninh Bình, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức tọa đàm “Trách nhiệm và khát vọng của nhà thơ”. Dưới đây là tham luận của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến.
Xem thêm
Tôi đọc bài thơ Đừng sợ một mình của thi sĩ Trần Mạnh Hảo
Trần Mạnh Hảo và thơ ông đã sớm là “tín ngưỡng” đẹp nhất trong lòng của những người yêu thơ, quý chữ nghĩa chân chính. Từ thời còn trên giảng đường đại học, tôi đã từng nghe thầy tôi đọc những câu thơ trong trường ca Đất nước hình tia chớp. Từ đó, tôi bắt đầu săn sóc sự học, sự đọc về thơ ông.
Xem thêm
Hoàng đế Quang Trung, danh tướng bách chiến bách thắng
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, hiếm có một anh hùng nào như Hoàng đế Quang Trung, xuất thân áo vải, cả đời chinh chiến, danh vang bốn biển, đánh giặc lập nước, tôn vinh văn hiến, khuyến học khuyến tài, những bậc quốc sĩ danh thần cảm phục uy danh mà theo về giúp rập. Đặc biệt, trong hai lần đại phá quân Xiêm La và quân Thanh, ông đã bằng vào tài năng quân sự thiên bẩm của mình, đánh cho lũ giặc phía Nam, phía Bắc phải kinh hồn táng đởm. Ông từng hào sảng tuyên ngôn trong Chiếu xuất quân khích lệ tướng sĩ khi hành binh ra Bắc Hà đánh tan 29 vạn quân Thanh
Xem thêm
Mùa Xuân trong thơ Dương Xuân Linh
Bài viết của nhà thơ Phùng Hiệu
Xem thêm
Xuân về, đọc thơ Trương Nam Hương
Tuấn Trần viết về tập thơ “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương
Xem thêm
Tình yêu bển đảo trong thơ Lê Tiến Lợi
Nhà thơ Lê Tiến Mợi là một trong những người gắn bó lâu năm với nghiệp văn chương. Anh đã có số lượng tác phẩm khá lớn, trong đó một số sáng tác của anh đã chiếm được cảm tình của người đọc. Sau đây xin trân trọng gửi tới Ban Biên tập Văn chương thành phố Hồ Chí Minh bài viết về tình yêu biển đảo trong thơ anh. Xin chân thành cảm ơn Ban Biên tập khi được cộng tác với Văn chương thành phố Hồ Chí Minh.
Xem thêm
Mảnh trăng tinh tấn hàng cau trổ buồng
Cảm nhận về tập thơ SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Kẻ cày mây thu và gieo trồng muôn dặm sao
Bài viết của Tuần Trần về tập thơ “Những đám mây mùa thu” của Trần Quang Khánh
Xem thêm