- Văn chương thế giới
- Nhà văn đoạt giải Nobel 2021: ‘Viết không thể chỉ là luận chiến’
Nhà văn đoạt giải Nobel 2021: ‘Viết không thể chỉ là luận chiến’
Nhà văn người Tanzania đã nói về vấn đề di cư, chủ nghĩa thực dân và cách ông trở thành nhà văn trong diễn văn nhận giải Nobel vừa công bố.
Abdulrazak Gurnah đoạt giải Nobel năm 2021 về Văn học vào tháng 10.
Nhà văn Abdulrazak Gurnah đoạt giải Nobel Văn học năm 2021 hồi tháng 10 “vì sự thâm nhập kiên định và nhân ái trong các tác phẩm của ông đối với chủ nghĩa thực dân và số phận của những người tị nạn trong hố sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa.”
Có gốc gác từ Zanzibar, đất nước ở phía Đông châu Phi, sau cuộc cách mạng năm 1964, khi còn ở tuổi thiếu niên, ông đã chuyển đến nước Anh và bắt đầu viết để “từ chối những bản tóm tắt tự tin về những người coi thường, khinh thường chúng tôi”.
Ông chia sẻ thêm: Chỉ trong những năm tháng đầu sống ở Anh, tôi mới có thể suy ngẫm về những vấn đề như vậy. Suy nghĩ về sự xấu xa mà con người có thể gây ra cho nhau, xem xét lại những điều mà con người an ủi nhưng lại là những lời hứa hẹn dối trá và ảo tưởng. Và cuối cùng tôi viết về những gì tôi suy ngẫm này, không theo trật tự hay tổ chức nào, chỉ để giải tỏa phần nào những rối bời, hỗn loạn trong tâm trí tôi.”
Trong nhận thức của nhà văn, khi ấy cũng hình thành nhận thức “đáng lo ngại” về “một lịch sử mới, đơn giản hơn đang được xây dựng, biến đổi và thậm chí xóa sổ những gì đã xảy ra”. Nhưng ông đã đấu tranh để từ chối một nhận thức về lịch sử như vậy, để viết một cách trung thực về “những cuộc đàn áp tàn ác mà những lời tự chúc của các nhà cầm quyền đã tìm cách xóa sạch khỏi kí ức của chúng ta”.
Ông cũng muốn nghiên cứu và khám phá những kinh nghiệm của mình về chủ nghĩa thực dân. Điều mà ông đã trải nghiệm rõ ràng hơn khi chuyển đến và sống tại Vương quốc Anh. Ông hình dung được những câu chuyện của người dân tại đây, ngôn ngữ và văn chương của họ, sự phân biệt chủng tộc và nhiều bất công khác mà họ đối xử với người di cư, về sự xúc phạm, coi thường, thái độ thù địch không khoan nhượng của họ đối với người di cư trong các cuộc gặp gỡ thường ngày ở các cửa hàng, trong văn phòng, trên xe buýt. Tiến bộ của con người đối với vấn đề di cư lúc đó gần như là ảo tưởng. Sau đó người ta cố gắng thay đổi nhưng dường như không thành công, khi những người tị nạn và xin tị nạn thường bị coi như tội phạm.
Với tư cách là một nhà văn da màu, Gurnah cho biết: “Khi đó tôi không thể làm gì với sự tiếp nhận có phần thù địch tại Anh, nhưng bằng cách học hỏi sâu sắc về ngôn ngữ và đời sống, tôi muốn viết những gì để từ chối những bản tóm tắt tự tin của những người đã khinh thường chúng tôi”.
Song, nhà văn cũng cho biết mục đích của viết lách không thể chỉ là luận chiến, điều này cũng giống như những gì các nhà văn từng đoạt giải Nobel Văn học như Harold Pinter, Doris Lessing và Toni Morrison từng chia sẻ: “Viết lách không thể chỉ là chiến đấu và luận chiến, dù nó có thể tiếp thêm sinh lực và nguồn an ủi”.
“Viết không phải về chuyện này, vấn đề này hay vấn đề kia, hoặc mối quan tâm này hay mối quan tâm khác, mà vì mối quan tâm của nó là cuộc sống con người theo cách này hay cách khác, sớm hay muộn sự tàn nhẫn và tình yêu và sự yếu đuối trở thành chủ đề của nó,” ông nói. “Tôi tin rằng chữ viết cũng phải thể hiện được mong muốn, khát vọng của con người, những gì mà con mắt độc đoán cứng rắn không thể nhìn thấy, những gì làm cho con người, mang vẻ ngoài tầm vóc nhỏ bé, cảm thấy yên tâm vào bản thân bất chấp sự khinh thường của người khác. Vì vậy, tôi thấy cần phải viết về điều đó, và phải làm điều đó một cách trung thực, vượt qua cái xấu xa và tốt đẹp, để con người thoát ra khỏi sự đơn giản và khuôn mẫu. Khi điều đó được thực hiện, vẻ đẹp sẽ xuất hiện từ đó”.
Sự viết
(Diễn từ nhận giải Nobel văn học của nhà văn Abdulrazak Gurnah)
Viết luôn luôn là một niềm vui. Ngay từ khi là một cậu bé ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã mong đợi một lớp học dành riêng cho việc viết những câu chuyện hay viết về bất kì điều gì mà các thầy cô nghĩ rằng chúng tôi có hứng thú, hơn bất kì môn học nào khác trong thời khóa biểu. Sau đó, tất cả mọi người sẽ im lặng, cúi xuống bàn để ngẫm nghĩ, để viết một điều gì đó được rọi từ trí nhớ và tưởng tượng. Trong những nỗ lực của tuổi trẻ này, không phải để nói điều gì cụ thể, để nhớ lại một trải nghiệm đáng nhớ, bày tỏ quan điểm cứng rắn hoặc bày tỏ sự bất bình. Những nỗ lực này cũng không đòi hỏi bất kì người đọc nào khác ngoài giáo viên, những người đã nhắc nhở học sinh như một bài tập để cải thiện kĩ năng diễn đạt của mình. Tôi viết bởi tôi được hướng dẫn cách viết và bởi tôi cảm thấy rất thích thú với bài tập.
Nhiều năm sau, khi tôi là một giáo viên trong trường, tôi lại có trải nghiệm trái ngược, khi tôi ngồi trong lớp học im lặng trong khi các học sinh chăm chú vào bài vở của mình. Nó làm tôi nhớ đến một bài thơ của DH Lawrence mà bây giờ tôi sẽ trích dẫn một vài dòng trong đó:
Một số câu trong bài Ngôi trường tuyệt nhất:
Khi tôi ngồi trên bờ của lớp học, một mình,
Ngắm nhìn những cậu bé trong chiếc áo cánh mùa hè
Khi họ viết, những cái đầu xoe tròn cúi chào:
Và hết người này đến người khác
Cậu ấy quay lại nhìn tôi,
rất trầm ngâm và lặng lẽ,
Giống như thấy, cũng như không thấy
Và rồi cậu ấy quay lại nhìn lần nữa, với chút mừng vui
Vì công việc của cậu đã nhịp nhàng
Đã tìm thấy những điều cậu muốn, những điều gì cần phải có.
Lớp học viết mà tôi đã nói đến hay bài thơ này khi tôi nhớ lại đều không giống như sau này. Nó không được định hướng, tổ chức, thực hành lặp đi lặp lại một cách bền bỉ. Trong những nỗ lực tuổi trẻ, tôi đã viết một cách thẳng thắn, hồn nhiên, có thể nói là không do dự hay chỉnh sửa nhiều. Tôi cũng đọc sách không theo một định hướng nào. Đôi khi, khi không cần thiết phải dậy sớm để đi học, tôi đã đọc đến tận đêm khuya đến nỗi chính cha tôi, người bệnh dạ dày, đã phải đến phòng và nói tôi tắt đèn. Tôi không thể nói với cha, rằng sao cha vẫn còn thức còn con thì không thể, bởi đó không phải cách bạn nói với cha mình, trong bất cứ trường hợp nào.
Việc viết và đọc đến sau này có trật tự, định hướng hơn so với trải nghiệm ngẫu hứng của tuổi trẻ, nhưng nó luôn thú vị và không bao giờ là cuộc tranh đấu. Dần dần, việc đọc và viết còn trở thành một loại thú vui, sở thích của tôi. Tôi đã không nhận ra điều này một cách đầy đủ cho đến khi tôi đến sống ở Anh. Chính ở đó, giữa những cơn đau ốm ở nhà và giữa nỗi thống khổ cuộc sống của một kẻ xa lạ trong xã hội, tôi bắt đầu suy ngẫm về rất nhiều điều mà trước đây tôi chưa từng nghĩ đến. Sau thời kì đó, thời kì đói nghèo và bị kì thị, xa lánh kéo dài đó, tôi bắt đầu viết một thể loại khác. Tôi nhận ra mình cần phải nói, mình có một nhiệm vụ phải hoàn thành, về những hối tiếc và bất bình được cân nhắc và đúc rút.
Lần đầu tiên, tôi nghĩ về những gì tôi đã bỏ lại sau chuyến bay liều lĩnh từ quê hương của mình. Một sự hỗn loạn sâu sắc đã giáng xuống cuộc sống của chúng tôi vào giữa những năm 1960, quyền hành và sai trái bị che lấp bởi những tàn bạo đi kèm với những đổi thay mà cuộc cách mạng năm 1964 mang lại: giam giữ, hành quyết, trục xuất cùng vô số sự phẫn nộ và áp bức lớn nhỏ. Khi đang ở độ tuổi mới lớn, tâm trí bị hỗn loạn giữa các sự kiện hỗn loạn ồ ạt xảy đến này, tôi không thể có những suy nghĩ rõ ràng về sự tác động của lịch sử và tương lai sau này.
Chỉ trong những năm đầu sống ở Anh, tôi mới có thể suy ngẫm về những vấn đề như vậy, suy nghĩ về sự xấu xa mà những gì chúng ta có thể gây ra cho nhau, xem xét lại những lời nói dối và ảo tưởng mà chúng ta đã tự an ủi mình. Lịch sử của chúng ta là một phần, im lặng về nhiều sự tàn ác. Nền chính trị của chúng ta chứa sự phân biệt chủng tộc, trực tiếp dẫn đến những cuộc đàn áp sau cuộc cách mạng, khi những người cha bị tàn sát trước mặt các con, khi những đứa con gái bị hành hung trước mặt mẹ của chúng. Sống ở Anh, xa rời những sự việc này, nhưng những ám ảnh về nó vẫn in đậm trong tâm trí tôi, có lẽ vì không phải là người sống giữa những sự kiện đó nữa, nên tôi càng ít có khả năng chống lại những kí ức đầy sức mạnh như vậy. Tôi cũng gặp rắc rối vì những kí ức khác không liên quan đến những sự kiện này: những hành động tàn ác mà cha mẹ đã gây ra cho con cái của họ, sự bất bình đẳng bao gồm sự nghèo đói và phụ thuộc, những giáo điều, thành kiến về xã hội và giới tính. Đây là những vấn đề hiện hữu trong cuộc sống của con người và không phải là ngoại lệ đối với một ai, nhưng không phải những điều đó lúc nào cũng nằm trong tâm trí của bạn, cho đến khi hoàn cảnh buộc bạn phải nhận thức về chúng. Tôi nghĩ rằng, đây là một trong những gánh nặng của những con người đã chạy trốn khỏi vết thương lòng, tìm cho mình cuộc sống an toàn, bỏ lại những người ở phía sau. Cuối cùng thì tôi cũng bắt đầu viết về một số suy tư này, không theo một cách có trật tự hay có tổ chức, chỉ để giải tỏa bớt phần nào những bối rối và không chắc chắn trong tâm trí tôi.
Tuy nhiên, theo thời gian, rõ ràng là có điều gì đó vô cùng đáng lo ngại đang diễn ra. Một lịch sử mới, đơn giản hơn đang được xây dựng, biến đổi và thậm chí xóa sổ những gì đã xảy ra, cấu trúc lại nó cho phù hợp với thời điểm này. Lịch sử mới và đơn giản hơn này không chỉ là công việc tất yếu của những người chiến thắng, những người luôn được tự do xây dựng một câu chuyện theo lựa chọn của họ, mà nó còn phù hợp với các nhà bình luận và học giả, thậm chí cả những nhà văn không thực sự quan tâm đến chúng tôi hoặc họ tìm hiểu về chúng tôi thông qua một góc nhìn và quan điểm của họ về thế giới và những người yêu cầu một câu chuyện quen thuộc về sự tiến bộ và giải phóng chủng tộc.
Khi đó, điều cần thiết là phải từ chối một lịch sử như vậy, một lịch sử coi thường những vật thể vật chất đã làm chứng cho những dấu mốc thời gian trước đó, những tòa nhà, những thành tựu và sự dịu dàng đã làm nên sự sống. Nhiều năm sau, khi tôi đi qua những con đường ở thị trấn mà tôi lớn lên, tôi nhìn thấy sự xuống cấp của mọi điều, từ những địa điểm xưa và con người: họ già đi với mái tóc hoa râm, họ sợ mất những kí ức về quá khứ. Cần phải nỗ lực để lưu giữ những kí ức đó, viết về những gì đã có ở đó, tìm lại những khoảnh khắc và những câu chuyện mà mọi người đã sống và qua đó, họ hiểu được bản thân mình. Cần phải viết về những cuộc đàn áp và tàn ác mà những lời tự chúc mừng của những người cầm quyền chúng ta đã tìm cách xóa sạch khỏi kí ức của chúng ta.
Ngoài ra còn hiểu biết khác về lịch sử cần phải giải quyết, một sự hiểu biết trở nên rõ ràng hơn đối với tôi khi tôi sống ở Anh, rõ ràng hơn so với trước đây khi tôi trải qua nền giáo dục thuộc địa của mình ở Zanzibar. Chúng tôi, những người thuộc thế hệ của chúng tôi, là những đứa con của chủ nghĩa thực dân không giống và không như thời cha mẹ chúng tôi. Ý tôi không phải là chúng tôi xa lánh những điều mà thế hệ cha mẹ chúng tôi coi trọng hay những người đến sau chúng tôi đã được giải phóng khỏi ảnh hưởng của thực dân. Ý tôi là chúng tôi lớn lên và được giáo dục trong thời kì có lòng tin cao độ về đế quốc, ít nhất là ở những khu vực mà chúng tôi sống trên thế giới, ở đó sức mạnh thống trị ngụy tạo những giá trị của con người và chúng tôi bị khuất phục. Tôi đề cập đến giai đoạn trước khi các chiến dịch phi thực dân hóa trên khắp khu vực đạt được thành công và thu hút sự chú ý của chúng tôi, đến sự sụp đổ của chế độ thuộc địa. Những người đến sau chúng tôi có những thất vọng về thời hậu thuộc địa và huyễn hoặc bản thân để tự an ủi và có lẽ họ đã không nhìn thấy rõ ràng, hoặc đủ sâu, cách thức cuộc gặp gỡ thuộc địa đã biến đổi cuộc sống của chúng tôi, rằng sự hư hỏng và sự lầm lạc ở một khía cạnh nào đó của chúng tôi cũng là một phần của di sản thuộc địa đó.
Một số vấn đề trở nên rõ ràng hơn đối với tôi ở Anh, không phải vì tôi được giải thích, làm rõ thông qua các bài giảng ở lớp học, mà bởi tôi hiểu rõ hơn về cách một người di cư như tôi hình dung về các câu chuyện của họ và bản thân họ (người Anh bản địa) trong những bài viết, trong lời nói hằng ngày, trong sự vui nhộn đón chào những trò đùa phân biệt chủng tộc trên TV và những nơi khác, trong sự thù địch không khoan nhượng mà tôi gặp trong những cuộc gặp gỡ hàng ngày ở các cửa hàng, trong văn phòng, trên xe buýt. Tôi không thể làm gì với sự tiếp nhận đó, nhưng cũng giống như tôi đã học cách đọc với sự hiểu biết sâu sắc hơn, tôi muốn viết để từ chối những bản tóm tắt đầy tự tin của những người khinh thường và coi thường chúng tôi.
Nhưng viết lách không thể chỉ là chiến đấu và luận chiến, dù điều đó có thể tiếp thêm sinh lực và sự an ủi. Viết không phải về điều này, không phải về vấn đề này hay vấn đề kia, hoặc mối quan tâm này hay mối quan tâm khác, mà vì mối quan tâm của nó là cuộc sống con người theo cách này hay cách khác, sớm hay muộn sự tàn nhẫn, tình yêu và sự yếu đuối trở thành chủ đề của nó. Tôi tin rằng chữ viết cũng phải thể hiện những điều phi thường, những gì mà con mắt độc đoán cứng rắn không thể nhìn thấy, những gì khiến con người, có vẻ ngoài nhỏ bé, cảm thấy yên tâm vào bản thân bất chấp sự khinh bỉ của người khác. Vì vậy, tôi thấy cần phải viết về điều đó, và phải làm điều đó một cách trung thực, vượt qua cái xấu xa và tốt đẹp, con người thoát ra khỏi sự đơn giản và khuôn mẫu. Khi điều đó được thực hiện, một vẻ đẹp sẽ xuất hiện từ nó.
Và cách nhìn đó tạo khoảng trống cho sự nhu nhược và yếu đuối, cho sự dịu dàng giữa sự tàn ác, và cho sức mạnh của lòng nhân ái khơi thông cho mọi cội nguồn. Chính vì những lí do này mà đối với tôi, viết lách là một phần đáng giá và hấp dẫn trong cuộc sống của tôi. Tất nhiên, có những phần khác, nhưng chúng không phải là mối quan tâm của tôi trong dịp này. Kì diệu hơn, niềm vui viết của tuổi trẻ mà tôi đã nói ở phần đầu vẫn còn đó sau hàng chục năm.
Hãy để tôi kết thúc bằng cách bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Viện Hàn lâm Thụy Điển vì đã ban tặng niềm vinh dự to lớn này cho tôi và cho công việc của tôi. Tôi vô cùng biết ơn!
Bình Nguyên/VNQĐ