TIN TỨC

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng tìm chi tiết nhỏ cho cuộc đời lớn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-09 08:47:06
mail facebook google pos stwis
1136 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đi qua làng văn bằng một cái dáng thấp đậm, vừa gần gũi chan hoà vừa nghiêng ngả phóng túng. Chính tính cách Nguyễn Quang Sáng làm phong phú thêm hương vị cho tác phẩm Nguyễn Quang Sáng. Công chúng thân quen thường lấy lối sống Nguyễn Quang Sáng mà soi vào trang viết Nguyễn Quang Sáng để thấy được những màu sắc lấp lánh khác nhau. Tuy nhiên, khi bình tâm đọc văn Nguyễn Quang Sáng thật khách quan, thì không thể nào phủ nhận ông luôn biết cách tìm kiếm những chi tiết nhỏ để vun đắp một cuộc đời lớn!

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng chọn bút pháp phản ánh hiện thực xuyên suốt hành trình sáng tạo. Trí tưởng tượng đối với ông giống như một món hàng xa xỉ, vì ông tích cực lặn ngụp trong dòng chảy đa dạng và bất tận của đời thường. Nhánh sông Tiền chảy qua ngôi nhà chôn nhau cắt rốn của ông không chỉ xuất hiện trong truyện dài thiếu nhi “Dòng sông thơ ấu” mà liên tục cồn cào sóng gió trong nhiều tác phẩm của ông. Vui buồn quê nhà dắt Nguyễn Quang Sáng vào văn chương bằng truyện ngắn đầu tay “Con chim vàng” viết tháng 6/1956 với bối cảnh hoài niệm “Cây trứng cá trước sân nhà đã hết mùa, sâu đo xanh đỏ thoăn thoắt qua những cành lá li ti màu phấn mốc…”. Nghĩa là, nhà văn Nam bộ Nguyễn Quang Sáng khởi nghiệp trong âm vang văn hoá sông Hồng!

22 tuổi, tập kết ra Bắc, Nguyễn Quang Sáng chỉ có một ưu điểm là đánh bóng bàn rất giỏi. Thế nhưng, khi cư ngụ ở ngôi nhà số 2 phố Cổ Tân – Hà Nội, Nguyễn Quang Sáng đã bái vọng quê nhà bằng hai tiểu thuyết “Nhật ký người ở lại” viết năm 1961 và “Đất lửa” viết năm 1963. Vì sao khẳng định như vậy? Vì bối cảnh của cả hai tiểu thuyết đều là xứ sở mà Nguyễn Quang Sáng từng sinh ra và lớn lên. Nhân vật Quang trong “Nhật ký người ở lại” sau giây phút bịn rịn tiễn những đồng chí đi tập kết đã quay về làng Mỹ Hưng hoạt động cách mạng và hy sinh oanh liệt. Nhân vật Sáu Sỏi trong “Đất lửa” cũng trở lại làng Mỹ Long Hưng vận động tín đồ Hoà Hảo đoàn kết đánh Pháp. Làng Mỹ Hưng của “Nhật ký người ở lại” và làng Mỹ Long Hưng trong “Đất lửa” đều lấy nguyên mẫu từ xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang mà Nguyễn Quang Sáng đã cất tiếng khóc chào đời ngày 12/1/1932.

14 tuổi, Nguyễn Quang Sáng thoát ly theo cách mạng và được học ở Trường trung học chiến khu Nguyễn Văn Tố trong rừng U Minh. Tuy nhiên, nền tảng viết văn của Nguyễn Quang Sáng đều học ở thực tế, thực tế tranh đấu và thực tế xã hội. Những tác phẩm tiêu biểu như “Ông Năm Hạng”, “Tư Quắn”, “Quán rượu người câm” thời khói lửa và “Bàn thờ tổ của một cô đào”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Về lại bức tranh xưa” thời hoà bình, đều được Nguyễn Quang Sáng chưng cất từ thực tế trải nghiệm sinh động.

Hầu như toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng không câu nệ vào sách vở và tuyệt đối vắng bóng điển tích. Nguyễn Quang Sáng trực tiếp va đập với cuộc sống để nhìn, để nghe và để viết. Chỉ cần gạn lọc được chi tiết, thì Nguyễn Quang Sáng lập tức có những trang văn trần thuật hấp dẫn, như ông bộc bạch “Tôi mê chi tiết. Viết văn không chi tiết, chỉ nói như xã luận, thì còn ra gì”.

Sự khắc nghiệt của thời gian chắn chắn làm mai một nhiều giá trị mang thông điệp minh hoạ cho một giai đoạn văn chương nào đó. Thế nhưng, Nguyễn Quang Sáng nhờ vào thực tế kháng chiến của quân dân Nam bộ, đã có được truyện ngắn “Chiếc lược ngà” xuất sắc. Đầu năm 1965, Nguyễn Quang Sáng vượt Trường Sơn vào Căn cứ trung ương cục miền Nam, thì tháng 9/1966 ông viết được “Chiếc lược ngà”.

Đại diện cho những trang văn trần thuật kiểu Nguyễn Quang Sáng, “Chiếc lược ngà” kết cấu bằng lời kể của một đồng chí già. Cách dẫn dụ “Các bạn ạ” của đồng chí già chia không gian “Chiếc lược ngà” ra làm hai lát cắt với khoảng cách 12 năm, nhân vật ông Ba gặp cô bé bơ vơ Thu 8 tuổi và tái ngộ cô giao liên Thu 20 tuổi. Tín vật kết nối cho khoảng cách 12 năm là chiếc lược làm từ ngà voi của ông Sáu dành riêng tặng con gái mình. Giữa hai lần Thu xuất hiện, Nguyễn Quang Sáng cài cắm hai chi tiết gây xúc động mạnh mẽ.

Chi tiết thứ nhất: Lúc Thu 8 tuổi, ông Sáu về thăm nhà sau 7 năm xa biệt. Cô bé Thu không chịu gọi “ba” vì trên mặt ông Sáu có vết sẹo do bị bom giặc, không giống người cha chụp ảnh chung với má mà cô bé vẫn thường thấy. Suốt ba ngày ông Sáu nghỉ phép sum họp gia đình, Thu không nhận cha. Khi ông Sáu đi, thì Thu thét gọi “ba” nghẹn ngào “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “Ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm, tiếng “Ba” như vỡ tung ra từ lòng nó, nó vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang tay ôm chặt cổ ba nó”. Cuộc hội ngộ ngắn ngủi kia, cô bé Thu gửi theo một mong mỏi “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe ba!”.

Chi tiết thứ hai: Lúc Thu 20 tuổi, làm giao liên đưa cán bộ qua sông. Trước khi hy sinh, ông Sáu giao lại chiếc lược mà đích thân dùng miếng ngà voi và cái cưa làm từ vỏ đạn để chế tác nên hình nên dáng. Ông Sáu trao chiếc lược ngà cho Thu với lời nói dối thiện chí: “Ba cháu vẫn khoẻ, ba cháu không về được, nên gởi cho bác!” mà không thể ngờ Thu đã biết sự thật “Cháu chịu đựng được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi, sau đó thì cháu xin má cháu đi giao liên”. Và cái kết ấm áp từ hành động của ông Ba là “nhìn cháu, tôi bỗng buột miệng nói: Thôi, ba đi nghe con!”.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” có độ dài gần 7 ngàn chữ, không chỉ chia theo khoảng cách 12 năm mà còn chia thành hai câu chuyện: câu chuyện về tình cha con của ông Sáu với Thu, và câu chuyện tài trí của giao liên Thu. Một câu chuyện văn học và một câu chuyện điện ảnh. Nếu tách câu chuyện điện ảnh ra khỏi câu chuyện văn học, thì phẩm chất thẩm mỹ của truyện ngắn “Chiếc lược ngà” vẫn không ảnh hưởng gì. Thế nhưng, chính những trang miêu tả tỉ mỉ sự dũng cảm và khéo léo của giao liên Thu với nhiều hình ảnh ấn tượng, đã hé lộ khả năng một nhà biên kịch ở Nguyễn Quang Sáng. Do đó, ai đã đọc “Chiếc lược ngà” ngay thời điểm truyện ngắn này ra đời, chắc chắn sẽ không ngạc nhiên khi sau ngày đất nước thống nhất thì Nguyễn Quang Sáng thăng hoa tên tuổi qua các kịch bản phim “Mùa gió chướng” hoặc “Cánh đồng hoang”.

Cùng với “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng có một tác phẩm nữa viết ở chiến khu Tân Biên cần phải nhắc đến, là truyện ngắn “Chị Nhung”. Ngay trong đợt 1 của cuộc nổi dậy Mậu Thân, Nguyễn Quang Sáng và Lê Văn Thảo là hai nhà văn được trực tiếp tham gia. Ngoài vài bút ký, truyện ngắn “Chị Nhung” là thu hoạch của Nguyễn Quang Sáng từ thực tế khốc liệt tấn công vào đô thị Sài Gòn.

“Chiếc lược ngà” và “Chị Nhung” khá giống nhau về mô-tip. Nếu “Chiếc lược ngà” được kể bởi một đồng chí già, thì “Chị Nhung” được kể bởi chính trị viên tiểu đoàn Tám Sơn. Thu trong “Chiếc lược ngà” xuất hiện với hình ảnh một cô bé bơ vơ và một nữ giao liên gan dạ, thì Nhung trong “Chị Nhung” cũng xuất hiện với hình ảnh một cô bé đơn côi và một nữ giao liên can trường.

Nếu như Thu đưa cán bộ qua sông an toàn “cô vừa chặn địch, vừa bước ra khỏi chỗ nguy hiểm mà mặt cứ phơi phới…Con gái hai mươi tuổi không thể có cặp mắt trong sáng như thế, và cô mới ngây thơ làm sao, cô vẫn còn đeo bông tòn ten, cô đi dần về phía tôi…” thì Nhung mở đường cho bộ đội rút lui “trong trận đánh vào Bộ tổng tham mưu của Mỹ- Ngụy, lúc đánh trả lại các đợt phản kích của xe tăng địch, có một chiến sĩ bắn B.40 thọc họng súng qua các cửa sổ bắn đến viên đạn thứ mười sáu. Thấy hai bên tai anh rỉ máu, một chị chạy đến không cho anh bắn nữa. Chị giật súng trên tay anh và bắn tiếp. Nghe nói chị ấy cũng tên Nhung. Tôi muốn gặp chị để hỏi lại những chuyện ấy cho rõ hơn và do tính tò mò, tôi muốn gặp tận mắt một cô gái người Sài Gòn”.

Truyện ngắn “Chị Nhung” viết sau truyện ngắn “Chiếc lược ngà” khoảng 2 năm, yếu tố lịch sử của “Chị Nhung” cụ thể hơn “Chiếc lược ngà”, nhưng tính cách nhân vật nữ và cảm hứng sáng tác rất giống nhau. Nét độc đáo là nhà văn Nguyễn Quang Sáng đều khắc khoải được sẻ chia niềm che chở của tình phụ tử cho Thu và Nhung, vì hai cô bé đều có cha biền biệt kháng chiến.

Trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là sự bồi hồi “Lúc chia tay, tôi không nghe cháu gọi tôi là ba. Nhưng những lúc nằm một mình, nhớ lại thì tôi nghe tiếng gọi “ba” của cháu, và tiếng “ba” như vang lên từ trong tâm tôi”, còn trong truyện ngắn “Chị Nhung” là sự xao xuyến “Bây giờ tôi thấy mình như một người cha đứng trước một đứa con. Tôi bước lại gần cháu, đưa tay vỗ nhẹ lên vai cháu…”.

Ngoài ra, nhà văn Nguyễn Quang Sáng còn có chút riêng tư dành cho Thu và Nhung, khi ông cố ý dời “hộ khẩu” cả hai nhân vật được thai nghén ngẫu nhiên ấy, cùng về quê nhà An Giang của ông. Nhân vật Thu thì nguyên quán “Cù lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Châu Sa”, còn nhân vật Nhung thì “cháu là người Tân Phú Đông, tỉnh Long Châu Sa”. Có lẽ, cần ghi chú thêm rằng, tỉnh An Giang có lúc chuyển đổi thành tỉnh Long Châu Sa, là địa danh hành chính gộp lại của Long Xuyên, Châu Đốc và Sa Đéc. Rõ ràng, nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một người con nặng lòng với cội nguồn.

Tuy không được đưa vào sách giáo khoa để phổ cập rộng rãi bằng truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, nhưng truyện ngắn “Chị Nhung” ngay sau khi công bố cuối năm 1968 đã có tiếng vang rất lớn. Năm 1970, Hãng phim truyện VN đã đưa truyện ngắn “Chị Nhung” lên màn bạc, do Nguyễn Đức Hinh và Đặng Nhật Minh làm đạo diễn, Lê Vân đóng vai nữ chính! Nhà văn Nguyễn Quang Sáng thổ lộ nhờ cơ duyên đó “như mở thêm cho tôi một con đường viết kịch bản phim”.



MỘT VÀI HÌNH ẢNH TẠI HỘI THẢO NGUYỄN QUANG SÁNG - CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm