- Lý luận - Phê bình
- Văn chương: Ðạo và không đạo?
Văn chương: Ðạo và không đạo?
Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
2021-08-06 20:12:14
2565 lượt xem
TRẦN TUẤN
Ðôi dòng chú giải, đề từ trong tác phẩm văn chương, nếu thiếu sót dễ dẫn đến những “cuộc chiến” dai dẳng với những lời kết tội đạo văn khó lường.
Những bức tường như số phận chúng ta, bài thơ sáng tác năm 2019 của Thanh Thảo (Viết&Đọc mùa Đông 2020), với lời đề từ bằng câu thơ của Nguyễn Thụy Kha Nhìn tường nhà chúng ta từng ở lở lói. Buồn lạ. Thi sĩ cảm hứng từ câu thơ của người khác, tạo ra một không khí những bức tường hữu hình và vô hình của đời mình, riêng mình. Bức tường thời gian, và giới hạn…
Điệp khúc những bức tường cứ thế vang lên. Ba mươi năm rồi bạn ơi/tôi bong tróc như bức tường từng ở/…/những bức tường tuổi già/nhìn ta trân trối. Câu thơ của Nguyễn Thụy Kha là cớ, là xúc tác để Thanh Thảo khai triển cái mạch riêng mình. Đây không phải là lời đề tặng, mà là kỹ thuật thông thường của người làm thơ, mượn/vịn vào một ngòi nổ ý tưởng, cảm xúc mà mình bất chợt chạm tới. Dòng đề từ vừa như lời thông báo, cũng vừa biểu thị sự cảm ơn với người đem lại hứng khởi cho mình.
Trong nhà Tagore (Viết&Đọc mùa Thu 2020) là những cảm xúc và suy tư của nhà thơ Hữu Thỉnh khi đến thăm cố cư của thi hào Rabindranath Tagore ở Ấn Độ. Với những câu thơ hay: Người ta bảo sông Hằng vừa đến thăm ông/để lại dấu chân nơi mái gianh đọng nước.
Bài thơ có chú thích bên dưới: Mượn ý câu thơ của R. Tagore: Bàn tay trái của Chúa thì đáng yêu, bàn tay phải của Chúa thì kinh khủng. Liên quan đến câu thơ trong bài của Hữu Thỉnh: Vượt Chúa để nhìn thấy bàn tay thứ hai của Chúa.
Độc dị thi sĩ Bùi Giáng dù làm thơ “điên rực rỡ”, nhưng lại rất nghiêm cẩn với những đề từ dẫn nguồn ý tưởng, cảm xúc trong các sáng tác của mình. Bài Buổi hội, đề từ bằng đôi câu quen thuộc trong Truyện Kiều Thanh minh trong tiết tháng ba/Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Bài Vì bữa đó thì ghi mấy chữ Cảm đề Tess of the d’Urbervilles. Phải tìm hiểu mới biết Tess of the d’Urbervilles (xuất bản năm 1891) là tên tiểu thuyết của nhà văn người Anh Thomas Hardy (1840-1928), về bi kịch một thiếu nữ đáng thương. Sự dẫn nguồn khiến bạn đọc thấm thía hơn cảm xúc và sự chia sẻ từ tâm hồn thi sĩ trong những câu thơ Nên em muốn bàn tay ta siết chặt/Ngón vô ngần đau khổ ở trong tay.
Mưa nguồn là tập thơ đầu tay của Bùi Giáng in năm 1962 (NXB Hội Nhà văn tái bản năm 1993) nên có sự chăm chút kỹ lưỡng của tác giả, với nhiều bài thơ dẫn đề từ. Nhưng khá ngạc nhiên là tập Đười ươi chân kinh (NXB Hội Nhà văn & Nhã Nam, 2016) – cuốn tinh tuyển đầu tiên các tác phẩm của Bùi Giáng dày hơn 500 trang, lại bặt không thấy dẫn ra đề từ nào của Bùi Giáng trên những bài thơ?
Trong tập Thơ say của Vũ Hoàng Chương (bản in của NXB Hội Nhà văn, 1992), bài Tình liêu trai đề từ bằng hai câu thơ của Vương Ngư Dương: Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ/Ái thỉnh thu phần quỷ xướng thi. Nhưng chính đôi câu thơ trong bài thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng này (dịch nghĩa: Giọng đời đã chán ngấy không muốn nhắc tới nữa/ Chỉ thích nghe quỷ dưới mộ mùa thu ngâm thơ), Vương Ngư Dương viết ra lại để làm đề từ cho Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh. Những tương tác nghệ thuật thú vị qua thời gian hơn 500 năm.
Bài cuối cùng trong tập Thơ say là Bài hát cuồng có đề từ Y thị hà nhân ngã thị thùy – Trang Tử. Chỉ với điều ấy, tác giả có thể lập tức mở ra một không gian/khẩu khí bát ngát càn khôn: A ha! Đập cho nát vụn/Tuôn châu òa bật lên cười/-Ta có là ta chăng hề ai chứ là ngươi!, theo mạch người xưa.
Đôi dòng chú giải, đề từ trong tác phẩm văn chương, nếu thiếu sót, thậm chí dẫn đến những “cuộc chiến” dai dẳng với những lời kết tội đạo văn khó lường.
Như “trận mạc” từng xảy ra giữa các thi hào Chile đầu thế kỷ 20 mà ở Việt Nam ít thấy nhắc đến. Đó là khi bài thơ số 16 trong tập Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng (bản in đầu tiên năm 1924) của Pablo Neruda được phát hiện là “mượn” gần như nguyên vẹn bài số 30 trong tập Người làm vườn của Rabindranath Tagore (Nobel Văn học năm 1913). Nhà thơ đương thời Vicente Huidobro lập tức kết tội “đạo thơ” cho Neruda.
Nhưng căng thẳng hơn cả là sự nảy lửa kéo dài suốt 30 năm giữa thi sĩ Pablo de Rokha – một trong tứ trụ thơ Chile thời đó (cùng Pablo Neruda, Vicente Huidobro) với tác giả Hai mươi bài thơ tình… Rokha thậm chí gọi Neruda là “nghệ sĩ phàm tục, đạo đức giả”, đồng thời viết hàng loạt tiểu luận lẫn sách chống lại Neruda về hành vi “đạo thơ”.
Trong diễn từ nhận giải Nobel năm 197l, lúc này Pablo de Rokha đã qua đời ba năm trước đó vì tự sát, Pablo Neruda có lẽ vẫn còn chưa hết “ấm ức”: Tôi không tự bào chữa, vì tôi tin rằng cả buộc tội cũng như bào chữa đều không nằm trong các nhiệm vụ của nhà thơ… Không nhà thơ nào có kẻ thù đáng kể hơn sự bất tài của chính mình… (Nguyễn Khánh Long dịch, nguồn Talawas).
Tuy nhiên những bản in về sau, bài số 16 này được Neruda chua thêm dòng đề từ Viết lại (paráfrasis) theo bài thơ thứ 30 Người làm vườn của Rabindranath Tagore.
Cũng ít ai biết chính thi phẩm lừng lẫy Thơ Dâng (Gitanjali) của Tagore trước đó cũng chịu “điều tiếng” bởi ảnh hưởng nhiều từ Hafez Shirazi (1315-1390), nhà thơ huyền thoại người Ba Tư (Iran). Tagore cũng thừa nhận điều đó, như nhiều cái tên nổi tiếng như Goethe, Thoreau, W.B Yeats từng bị Hafez Shirazi “ám ảnh”

Gần 180 năm trước, bài thơ bất hủ The Raven (Con quạ) của Edgar Poe cũng chịu nhiều săm soi bàn cãi về “tội đạo thơ”, kéo dài cho đến tận ngày nay. Bởi xuyên suốt tác phẩm này đã mượn cấu trúc và nhịp điệu độc đáo từ một bài thơ của nữ sĩ nổi tiếng đương thời Elizabeth Barrett Browning mà không có một lời nhắc đến. Poe sau đó thừa nhận điều này, và bày tỏ thái độ trân trọng biết ơn của mình với Barrett.
Tuy nhiên, so với những vụ việc tương tự, văn chương Việt Nam có vẻ “thoáng” hơn?
Nhà phê bình Thụy Khuê (Pháp) trong cuốn Cấu trúc thơ (NXB Đà Nẵng & Domino Books, 2019), nhắc lại điều mà nhiều người vẫn biết, đó là bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu “phảng phất ảnh hưởng Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Thuyết giao cảm (correspondance) của Baudelaire”. Trong bài Confession d’un poète (Thổ lộ của một nhà thơ), chính Xuân Diệu tâm sự “biết bao lần ông đã mượn ý thơ, tứ thơ, kỹ thuật âm thanh của người trước để biến chế thành của mình”. Là tác phẩm của những tác gia nổi tiếng như Edmond Haraucourt, Felíx Arvers, Alfred de Vigny, Baudelaire,…
Ở đây, Thụy Khuê cho rằng Xuân Diệu “đã dùng vốn của người để tạo nên nghệ thuật của mình”. Điều này đồng nhất với nhận định của Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: “Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta”.
Nhà phê bình Thụy Khuê gọi đó là cách sử dụng “điển cố gián tiếp”, một hình thức thông dụng nhất trong thơ, “tức là biến ý hoặc lời của người trước thành của riêng mình, một cách có nghệ thuật (khác với sự sao chép nguyên văn hay đạo văn)”; giá trị của “điển cố gián tiếp”, đó là “thế hệ mai sau không cần biết nguồn của điển cố, cũng vẫn tận hưởng được giá trị nghệ thuật” (Thụy Khuê, sđd trang 104,106).
Có thể thấy, các cấu trúc ngôn ngữ - hình ảnh luôn là cái khuôn dùng chung từ khi nó ra đời. Rất nhiều những mô thức biểu đạt ngôn ngữ trở thành biểu tượng kinh điển cho tư duy và nghệ thuật sáng tạo, lặn sâu vào tâm thức và tiềm thức, mà không có nghĩa người đi sau phải tránh xa không được “đụng” đến! Qua hàng ngàn năm, tiến trình văn chương nhân loại đầy những cái bóng khổng lồ, sự va chạm, giao thoa làm sao tránh khỏi. Độc sáng chỉ có ở thiên tài, nhưng ngay cả những thiên tài đôi khi cũng phải “đứng trên vai” tiền nhân. Nói như I.A. Richards (1893-1979), nhà thơ, nhà phê bình người Anh, đó là “tiếng vọng phổ quát của sự đồng nhất/giống nhau trong văn học và sáng tạo” (universal echo of literary and creative uniformity).
Nên thực tế không phải trường hợp nào cũng là đạo văn. Miễn sao trên cơ sở đó người sáng tạo phát triển và biến tấu được tư tưởng-nghệ thuật riêng cho tác phẩm của mình.
Tuy nhiên, với tư cách một người làm thơ, tôi bày tỏ sự tôn trọng với những đề từ/chú giải bên lề bài thơ, thông báo cho bạn đọc biết ở đó đã có sự vay mượn/gợi hứng từ sáng tạo của người khác. Một thái độ sòng phẳng và văn minh cần thiết.
Nguồn: Văn nghệ số 31/2021
Bài viết liên quan
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm