TIN TỨC

Văn chương: Ðạo và không đạo?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-06 20:12:14
mail facebook google pos stwis
2584 lượt xem

TRẦN TUẤN
 

Ðôi dòng chú giải, đề từ trong tác phẩm văn chương, nếu thiếu sót dễ dẫn đến những “cuộc chiến” dai dẳng với những lời kết tội đạo văn khó lường.
 
Những bức tường như số phận chúng ta, bài thơ sáng tác năm 2019 của Thanh Thảo (Viết&Đọc mùa Đông 2020), với lời đề từ bằng câu thơ của Nguyễn Thụy Kha Nhìn tường nhà chúng ta từng ở lở lói. Buồn lạ. Thi sĩ cảm hứng từ câu thơ của người khác, tạo ra một không khí những bức tường hữu hình và vô hình của đời mình, riêng mình. Bức tường thời gian, và giới hạn…
 
Điệp khúc những bức tường cứ thế vang lên. Ba mươi năm rồi bạn ơi/tôi bong tróc như bức tường từng ở/…/những bức tường tuổi già/nhìn ta trân trối. Câu thơ của Nguyễn Thụy Kha là cớ, là xúc tác để Thanh Thảo khai triển cái mạch riêng mình. Đây không phải là lời đề tặng, mà là kỹ thuật thông thường của người làm thơ, mượn/vịn vào một ngòi nổ ý tưởng, cảm xúc mà mình bất chợt chạm tới. Dòng đề từ vừa như lời thông báo, cũng vừa biểu thị sự cảm ơn với người đem lại hứng khởi cho mình.
 
Trong nhà Tagore (Viết&Đọc mùa Thu 2020) là những cảm xúc và suy tư của nhà thơ Hữu Thỉnh khi đến thăm cố cư của thi hào Rabindranath Tagore ở Ấn Độ. Với những câu thơ hay: Người ta bảo sông Hằng vừa đến thăm ông/để lại dấu chân nơi mái gianh đọng nước.
 
Bài thơ có chú thích bên dưới: Mượn ý câu thơ của R. Tagore: Bàn tay trái của Chúa thì đáng yêu, bàn tay phải của Chúa thì kinh khủng. Liên quan đến câu thơ trong bài của Hữu Thỉnh: Vượt Chúa để nhìn thấy bàn tay thứ hai của Chúa.
 
Độc dị thi sĩ Bùi Giáng dù làm thơ “điên rực rỡ”, nhưng lại rất nghiêm cẩn với những đề từ dẫn nguồn ý tưởng, cảm xúc trong các sáng tác của mình. Bài Buổi hội, đề từ bằng đôi câu quen thuộc trong Truyện Kiều Thanh minh trong tiết tháng ba/Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
 
Bài Vì bữa đó thì ghi mấy chữ Cảm đề Tess of the d’Urbervilles. Phải tìm hiểu mới biết Tess of the d’Urbervilles (xuất bản năm 1891) là tên tiểu thuyết của nhà văn người Anh Thomas Hardy (1840-1928), về bi kịch một thiếu nữ đáng thương. Sự dẫn nguồn khiến bạn đọc thấm thía hơn cảm xúc và sự chia sẻ từ tâm hồn thi sĩ trong những câu thơ Nên em muốn bàn tay ta siết chặt/Ngón vô ngần đau khổ ở trong tay.
 
Mưa nguồn là tập thơ đầu tay của Bùi Giáng in năm 1962 (NXB Hội Nhà văn tái bản năm 1993) nên có sự chăm chút kỹ lưỡng của tác giả, với nhiều bài thơ dẫn đề từ. Nhưng khá ngạc nhiên là tập Đười ươi chân kinh (NXB Hội Nhà văn & Nhã Nam, 2016) – cuốn tinh tuyển đầu tiên các tác phẩm của Bùi Giáng dày hơn 500 trang, lại bặt không thấy dẫn ra đề từ nào của Bùi Giáng trên những bài thơ?
 
Trong tập Thơ say của Vũ Hoàng Chương (bản in của NXB Hội Nhà văn, 1992), bài Tình liêu trai đề từ bằng hai câu thơ của Vương Ngư Dương: Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ/Ái thỉnh thu phần quỷ xướng thi. Nhưng chính đôi câu thơ trong bài thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng này (dịch nghĩa: Giọng đời đã chán ngấy không muốn nhắc tới nữa/ Chỉ thích nghe quỷ dưới mộ mùa thu ngâm thơ), Vương Ngư Dương viết ra lại để làm đề từ cho Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh. Những tương tác nghệ thuật thú vị qua thời gian hơn 500 năm.
 
Bài cuối cùng trong tập Thơ say là Bài hát cuồng có đề từ Y thị hà nhân ngã thị thùy – Trang Tử. Chỉ với điều ấy, tác giả có thể lập tức mở ra một không gian/khẩu khí bát ngát càn khôn: A ha! Đập cho nát vụn/Tuôn châu òa bật lên cười/-Ta có là ta chăng hề ai chứ là ngươi!, theo mạch người xưa.
 
Đôi dòng chú giải, đề từ trong tác phẩm văn chương, nếu thiếu sót, thậm chí dẫn đến những “cuộc chiến” dai dẳng với những lời kết tội đạo văn khó lường.
 
Như “trận mạc” từng xảy ra giữa các thi hào Chile đầu thế kỷ 20 mà ở Việt Nam ít thấy nhắc đến. Đó là khi bài thơ số 16 trong tập Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng (bản in đầu tiên năm 1924) của Pablo Neruda được phát hiện là “mượn” gần như nguyên vẹn bài số 30 trong tập Người làm vườn của Rabindranath Tagore (Nobel Văn học năm 1913). Nhà thơ đương thời Vicente Huidobro lập tức kết tội “đạo thơ” cho Neruda.
 
Nhưng căng thẳng hơn cả là sự nảy lửa kéo dài suốt 30 năm giữa thi sĩ Pablo de Rokha – một trong tứ trụ thơ Chile thời đó (cùng Pablo Neruda, Vicente Huidobro) với tác giả Hai mươi bài thơ tình… Rokha thậm chí gọi Neruda là “nghệ sĩ phàm tục, đạo đức giả”, đồng thời viết hàng loạt tiểu luận lẫn sách chống lại Neruda về hành vi “đạo thơ”.
 
Trong diễn từ nhận giải Nobel năm 197l, lúc này Pablo de Rokha đã qua đời ba năm trước đó vì tự sát, Pablo Neruda có lẽ vẫn còn chưa hết “ấm ức”: Tôi không tự bào chữa, vì tôi tin rằng cả buộc tội cũng như bào chữa đều không nằm trong các nhiệm vụ của nhà thơ… Không nhà thơ nào có kẻ thù đáng kể hơn sự bất tài của chính mình… (Nguyễn Khánh Long dịch, nguồn Talawas).
 
Tuy nhiên những bản in về sau, bài số 16 này được Neruda chua thêm dòng đề từ Viết lại (paráfrasis) theo bài thơ thứ 30 Người làm vườn của Rabindranath Tagore.
 
Cũng ít ai biết chính thi phẩm lừng lẫy Thơ Dâng (Gitanjali) của Tagore trước đó cũng chịu “điều tiếng” bởi ảnh hưởng nhiều từ Hafez Shirazi (1315-1390), nhà thơ huyền thoại người Ba Tư (Iran). Tagore cũng thừa nhận điều đó, như nhiều cái tên nổi tiếng như Goethe, Thoreau, W.B Yeats từng bị Hafez Shirazi “ám ảnh”
Gần 180 năm trước, bài thơ bất hủ The Raven (Con quạ) của Edgar Poe cũng chịu nhiều săm soi bàn cãi về “tội đạo thơ”, kéo dài cho đến tận ngày nay. Bởi xuyên suốt tác phẩm này đã mượn cấu trúc và nhịp điệu độc đáo từ một bài thơ của nữ sĩ nổi tiếng đương thời Elizabeth Barrett Browning mà không có một lời nhắc đến. Poe sau đó thừa nhận điều này, và bày tỏ thái độ trân trọng biết ơn của mình với Barrett.
 
Tuy nhiên, so với những vụ việc tương tự, văn chương Việt Nam có vẻ “thoáng” hơn?
 
Nhà phê bình Thụy Khuê (Pháp) trong cuốn Cấu trúc thơ (NXB Đà Nẵng & Domino Books, 2019), nhắc lại điều mà nhiều người vẫn biết, đó là bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu “phảng phất ảnh hưởng Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Thuyết giao cảm (correspondance) của Baudelaire”. Trong bài Confession d’un poète (Thổ lộ của một nhà thơ), chính Xuân Diệu tâm sự “biết bao lần ông đã mượn ý thơ, tứ thơ, kỹ thuật âm thanh của người trước để biến chế thành của mình”. Là tác phẩm của những tác gia nổi tiếng như Edmond Haraucourt, Felíx Arvers, Alfred de Vigny, Baudelaire,…
 
Ở đây, Thụy Khuê cho rằng Xuân Diệu “đã dùng vốn của người để tạo nên nghệ thuật của mình”. Điều này đồng nhất với nhận định của Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: “Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta”.
 
Nhà phê bình Thụy Khuê gọi đó là cách sử dụng “điển cố gián tiếp”, một hình thức thông dụng nhất trong thơ, “tức là biến ý hoặc lời của người trước thành của riêng mình, một cách có nghệ thuật (khác với sự sao chép nguyên văn hay đạo văn)”; giá trị của “điển cố gián tiếp”, đó là “thế hệ mai sau không cần biết nguồn của điển cố, cũng vẫn tận hưởng được giá trị nghệ thuật” (Thụy Khuê, sđd trang 104,106).
 
Có thể thấy, các cấu trúc ngôn ngữ - hình ảnh luôn là cái khuôn dùng chung từ khi nó ra đời. Rất nhiều những mô thức biểu đạt ngôn ngữ trở thành biểu tượng kinh điển cho tư duy và nghệ thuật sáng tạo, lặn sâu vào tâm thức và tiềm thức, mà không có nghĩa người đi sau phải tránh xa không được “đụng” đến! Qua hàng ngàn năm, tiến trình văn chương nhân loại đầy những cái bóng khổng lồ, sự va chạm, giao thoa làm sao tránh khỏi. Độc sáng chỉ có ở thiên tài, nhưng ngay cả những thiên tài đôi khi cũng phải “đứng trên vai” tiền nhân. Nói như I.A. Richards (1893-1979), nhà thơ, nhà phê bình người Anh, đó là “tiếng vọng phổ quát của sự đồng nhất/giống nhau trong văn học và sáng tạo” (universal echo of literary and creative uniformity).
 
Nên thực tế không phải trường hợp nào cũng là đạo văn. Miễn sao trên cơ sở đó người sáng tạo phát triển và biến tấu được tư tưởng-nghệ thuật riêng cho tác phẩm của mình.
 
Tuy nhiên, với tư cách một người làm thơ, tôi bày tỏ sự tôn trọng với những đề từ/chú giải bên lề bài thơ, thông báo cho bạn đọc biết ở đó đã có sự vay mượn/gợi hứng từ sáng tạo của người khác. Một thái độ sòng phẳng và văn minh cần thiết.
 
Nguồn: Văn nghệ số 31/2021

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm