TIN TỨC

Văn chương: Ðạo và không đạo?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-20 13:23:53
mail facebook google pos stwis
1654 lượt xem

TRẦN TUẤN
 

Ðôi dòng chú giải, đề từ trong tác phẩm văn chương, nếu thiếu sót dễ dẫn đến những “cuộc chiến” dai dẳng với những lời kết tội đạo văn khó lường.
 
Những bức tường như số phận chúng ta, bài thơ sáng tác năm 2019 của Thanh Thảo (Viết&Đọc mùa Đông 2020), với lời đề từ bằng câu thơ của Nguyễn Thụy Kha Nhìn tường nhà chúng ta từng ở lở lói. Buồn lạ. Thi sĩ cảm hứng từ câu thơ của người khác, tạo ra một không khí những bức tường hữu hình và vô hình của đời mình, riêng mình. Bức tường thời gian, và giới hạn…
 
Điệp khúc những bức tường cứ thế vang lên. Ba mươi năm rồi bạn ơi/tôi bong tróc như bức tường từng ở/…/những bức tường tuổi già/nhìn ta trân trối. Câu thơ của Nguyễn Thụy Kha là cớ, là xúc tác để Thanh Thảo khai triển cái mạch riêng mình. Đây không phải là lời đề tặng, mà là kỹ thuật thông thường của người làm thơ, mượn/vịn vào một ngòi nổ ý tưởng, cảm xúc mà mình bất chợt chạm tới. Dòng đề từ vừa như lời thông báo, cũng vừa biểu thị sự cảm ơn với người đem lại hứng khởi cho mình.
 
Trong nhà Tagore (Viết&Đọc mùa Thu 2020) là những cảm xúc và suy tư của nhà thơ Hữu Thỉnh khi đến thăm cố cư của thi hào Rabindranath Tagore ở Ấn Độ. Với những câu thơ hay: Người ta bảo sông Hằng vừa đến thăm ông/để lại dấu chân nơi mái gianh đọng nước.
 
Bài thơ có chú thích bên dưới: Mượn ý câu thơ của R. Tagore: Bàn tay trái của Chúa thì đáng yêu, bàn tay phải của Chúa thì kinh khủng. Liên quan đến câu thơ trong bài của Hữu Thỉnh: Vượt Chúa để nhìn thấy bàn tay thứ hai của Chúa.
 
Độc dị thi sĩ Bùi Giáng dù làm thơ “điên rực rỡ”, nhưng lại rất nghiêm cẩn với những đề từ dẫn nguồn ý tưởng, cảm xúc trong các sáng tác của mình. Bài Buổi hội, đề từ bằng đôi câu quen thuộc trong Truyện Kiều Thanh minh trong tiết tháng ba/Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
 
Bài Vì bữa đó thì ghi mấy chữ Cảm đề Tess of the d’Urbervilles. Phải tìm hiểu mới biết Tess of the d’Urbervilles (xuất bản năm 1891) là tên tiểu thuyết của nhà văn người Anh Thomas Hardy (1840-1928), về bi kịch một thiếu nữ đáng thương. Sự dẫn nguồn khiến bạn đọc thấm thía hơn cảm xúc và sự chia sẻ từ tâm hồn thi sĩ trong những câu thơ Nên em muốn bàn tay ta siết chặt/Ngón vô ngần đau khổ ở trong tay.
 
Mưa nguồn là tập thơ đầu tay của Bùi Giáng in năm 1962 (NXB Hội Nhà văn tái bản năm 1993) nên có sự chăm chút kỹ lưỡng của tác giả, với nhiều bài thơ dẫn đề từ. Nhưng khá ngạc nhiên là tập Đười ươi chân kinh (NXB Hội Nhà văn & Nhã Nam, 2016) – cuốn tinh tuyển đầu tiên các tác phẩm của Bùi Giáng dày hơn 500 trang, lại bặt không thấy dẫn ra đề từ nào của Bùi Giáng trên những bài thơ?
 
Trong tập Thơ say của Vũ Hoàng Chương (bản in của NXB Hội Nhà văn, 1992), bài Tình liêu trai đề từ bằng hai câu thơ của Vương Ngư Dương: Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ/Ái thỉnh thu phần quỷ xướng thi. Nhưng chính đôi câu thơ trong bài thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng này (dịch nghĩa: Giọng đời đã chán ngấy không muốn nhắc tới nữa/ Chỉ thích nghe quỷ dưới mộ mùa thu ngâm thơ), Vương Ngư Dương viết ra lại để làm đề từ cho Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh. Những tương tác nghệ thuật thú vị qua thời gian hơn 500 năm.
 
Bài cuối cùng trong tập Thơ say là Bài hát cuồng có đề từ Y thị hà nhân ngã thị thùy – Trang Tử. Chỉ với điều ấy, tác giả có thể lập tức mở ra một không gian/khẩu khí bát ngát càn khôn: A ha! Đập cho nát vụn/Tuôn châu òa bật lên cười/-Ta có là ta chăng hề ai chứ là ngươi!, theo mạch người xưa.
 
Đôi dòng chú giải, đề từ trong tác phẩm văn chương, nếu thiếu sót, thậm chí dẫn đến những “cuộc chiến” dai dẳng với những lời kết tội đạo văn khó lường.
 
Như “trận mạc” từng xảy ra giữa các thi hào Chile đầu thế kỷ 20 mà ở Việt Nam ít thấy nhắc đến. Đó là khi bài thơ số 16 trong tập Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng (bản in đầu tiên năm 1924) của Pablo Neruda được phát hiện là “mượn” gần như nguyên vẹn bài số 30 trong tập Người làm vườn của Rabindranath Tagore (Nobel Văn học năm 1913). Nhà thơ đương thời Vicente Huidobro lập tức kết tội “đạo thơ” cho Neruda.
 
Nhưng căng thẳng hơn cả là sự nảy lửa kéo dài suốt 30 năm giữa thi sĩ Pablo de Rokha – một trong tứ trụ thơ Chile thời đó (cùng Pablo Neruda, Vicente Huidobro) với tác giả Hai mươi bài thơ tình… Rokha thậm chí gọi Neruda là “nghệ sĩ phàm tục, đạo đức giả”, đồng thời viết hàng loạt tiểu luận lẫn sách chống lại Neruda về hành vi “đạo thơ”.
 
Trong diễn từ nhận giải Nobel năm 197l, lúc này Pablo de Rokha đã qua đời ba năm trước đó vì tự sát, Pablo Neruda có lẽ vẫn còn chưa hết “ấm ức”: Tôi không tự bào chữa, vì tôi tin rằng cả buộc tội cũng như bào chữa đều không nằm trong các nhiệm vụ của nhà thơ… Không nhà thơ nào có kẻ thù đáng kể hơn sự bất tài của chính mình… (Nguyễn Khánh Long dịch, nguồn Talawas).
 
Tuy nhiên những bản in về sau, bài số 16 này được Neruda chua thêm dòng đề từ Viết lại (paráfrasis) theo bài thơ thứ 30 Người làm vườn của Rabindranath Tagore.
 
Cũng ít ai biết chính thi phẩm lừng lẫy Thơ Dâng (Gitanjali) của Tagore trước đó cũng chịu “điều tiếng” bởi ảnh hưởng nhiều từ Hafez Shirazi (1315-1390), nhà thơ huyền thoại người Ba Tư (Iran). Tagore cũng thừa nhận điều đó, như nhiều cái tên nổi tiếng như Goethe, Thoreau, W.B Yeats từng bị Hafez Shirazi “ám ảnh”
Gần 180 năm trước, bài thơ bất hủ The Raven (Con quạ) của Edgar Poe cũng chịu nhiều săm soi bàn cãi về “tội đạo thơ”, kéo dài cho đến tận ngày nay. Bởi xuyên suốt tác phẩm này đã mượn cấu trúc và nhịp điệu độc đáo từ một bài thơ của nữ sĩ nổi tiếng đương thời Elizabeth Barrett Browning mà không có một lời nhắc đến. Poe sau đó thừa nhận điều này, và bày tỏ thái độ trân trọng biết ơn của mình với Barrett.
 
Tuy nhiên, so với những vụ việc tương tự, văn chương Việt Nam có vẻ “thoáng” hơn?
 
Nhà phê bình Thụy Khuê (Pháp) trong cuốn Cấu trúc thơ (NXB Đà Nẵng & Domino Books, 2019), nhắc lại điều mà nhiều người vẫn biết, đó là bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu “phảng phất ảnh hưởng Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Thuyết giao cảm (correspondance) của Baudelaire”. Trong bài Confession d’un poète (Thổ lộ của một nhà thơ), chính Xuân Diệu tâm sự “biết bao lần ông đã mượn ý thơ, tứ thơ, kỹ thuật âm thanh của người trước để biến chế thành của mình”. Là tác phẩm của những tác gia nổi tiếng như Edmond Haraucourt, Felíx Arvers, Alfred de Vigny, Baudelaire,…
 
Ở đây, Thụy Khuê cho rằng Xuân Diệu “đã dùng vốn của người để tạo nên nghệ thuật của mình”. Điều này đồng nhất với nhận định của Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: “Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta”.
 
Nhà phê bình Thụy Khuê gọi đó là cách sử dụng “điển cố gián tiếp”, một hình thức thông dụng nhất trong thơ, “tức là biến ý hoặc lời của người trước thành của riêng mình, một cách có nghệ thuật (khác với sự sao chép nguyên văn hay đạo văn)”; giá trị của “điển cố gián tiếp”, đó là “thế hệ mai sau không cần biết nguồn của điển cố, cũng vẫn tận hưởng được giá trị nghệ thuật” (Thụy Khuê, sđd trang 104,106).
 
Có thể thấy, các cấu trúc ngôn ngữ - hình ảnh luôn là cái khuôn dùng chung từ khi nó ra đời. Rất nhiều những mô thức biểu đạt ngôn ngữ trở thành biểu tượng kinh điển cho tư duy và nghệ thuật sáng tạo, lặn sâu vào tâm thức và tiềm thức, mà không có nghĩa người đi sau phải tránh xa không được “đụng” đến! Qua hàng ngàn năm, tiến trình văn chương nhân loại đầy những cái bóng khổng lồ, sự va chạm, giao thoa làm sao tránh khỏi. Độc sáng chỉ có ở thiên tài, nhưng ngay cả những thiên tài đôi khi cũng phải “đứng trên vai” tiền nhân. Nói như I.A. Richards (1893-1979), nhà thơ, nhà phê bình người Anh, đó là “tiếng vọng phổ quát của sự đồng nhất/giống nhau trong văn học và sáng tạo” (universal echo of literary and creative uniformity).
 
Nên thực tế không phải trường hợp nào cũng là đạo văn. Miễn sao trên cơ sở đó người sáng tạo phát triển và biến tấu được tư tưởng-nghệ thuật riêng cho tác phẩm của mình.
 
Tuy nhiên, với tư cách một người làm thơ, tôi bày tỏ sự tôn trọng với những đề từ/chú giải bên lề bài thơ, thông báo cho bạn đọc biết ở đó đã có sự vay mượn/gợi hứng từ sáng tạo của người khác. Một thái độ sòng phẳng và văn minh cần thiết.
 
Nguồn: Văn nghệ số 31/2021

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm