TIN TỨC

Những ngón tay mải miết lần tìm mạch sống

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-27 17:23:16
mail facebook google pos stwis
1186 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Cảm tập thơ “Năm ngón chưa đặt tên” của nhà thơ Đinh Nho Tuấn)

Khi gấp tập "Năm ngón chưa đặt tên" tôi thấy đầm đầy mật ngôn của kẻ đói, người khát... “cạn ngày”. Đó là hành trình của "ngôn cùng lý tận" để bảo vệ, bênh vực cái hiền thiện và oán ghét thói đời bạc nhược, ươn hèn. Là giọt lệ xót đau “Rồi khép hờ nhau tiếng ngày qua”. Những bóng chữ loang lổ nỗ lực chiếu sáng trong mùng đêm huyễn ẩn tối tăm. “Một ngày trôi qua/ Con chim cất tiếng hót rồi bay đi/ Sao ta sợ sự thật như thế”.  Thứ văn chương vô mệnh tấm tức trên trang giấy: "Gặm, khoét khôn lường", ngụp sâu tiếng việt. Sự hóa thân của "em" trong nhiều dạng/ thể để tự sự về “nạn đói tình người”. Mỗi lần chủ thể trữ tình gọi người thương là mịt mù bụi phủ, đậm dày tình tháng năm và những trải nghiệm ăn gió mòn sương, kiếp người lưu đày đến rộng khổ khiếp nhược. “Như đôi chân thủy tinh nhún nhảy/ Trên cạm bẫy cuộc đời". Kẻ mộng du đi dưới trời đêm đầy hư ảnh "hồn xé thành trăm mảnh" hỏi người có "mang về nhánh trên tay". Những con chữ quờ quạng uống hơi đêm tìm nhau hoảng loạn trong "sương khói hững hờ, hạc vỗ cánh bay". Nhà thơ đi tìm tiếng hình loài người trong bể đời trũng sâu đã vội vã giá đông để sắp đặt "dấu chấm hết": “Đêm xôn xao gãy lên ngàn cung nhớ/ Em tiếc đêm nên đã khóc bao ngày/ Ta lang thang giữa sao trời độ lượng/ Những lá vàng lòa lấp lá cỏ may”.

Những góp nhặt vụn vỡ nhân sinh để hồi phục tàn tích đời nhiều những cuộc tìm chính mình. Có khi đi đến nửa kia bán cầu rồi lại về với cội nguồn sinh dưỡng. Tiếng kêu của những chữ sống sót, ủ trong muôn tiếng sáo diều.  Bởi "tiếng sáo diều xưa trong lòng tôi xây tổ". Nhà thơ luôn đau xót nỗi suy tàn, phân rã và ăn bắt trách nhiệm của mình cùng canh cánh nỗi quê hương. Nơi mặt đất lạnh tanh lòng người, “chân lý long đong”, hồn thơ đi tìm nguồn nước sông sâu diệu vợi hòng khỏa lấp cơn khát kết nối để làm đầy. Giấy nát, tự tàn, tiếng gọi “Thi nhân hỡi” như tái tê cõi lòng: “Thi nhân hỡi”/…Người quỳ nhiều giấy thơm tê buốt…/ Đây này hố chôn tập thể/ Người còn dưới đó ngủ mê”. Nhà thơ nói về thế giới thơ của mình, đã không còn những cõi thiêng liêng, chỉ còn điệu xảo trá vô luân, những kẻ đã mạo danh thi ca để đấu hót tin mừng. Một thời đại khi con chữ “ăn xổi ở thì”, cạn ráo nhân tính: “Mặt con chữ xỏ xiên/ Hoa vàng bay đau xót”…

Để rồi, thèm thuồng cõi an/ yên nơi bụng mẹ. Đó là thời khắc ngủ say thiêng liêng. Tác giả cần nhiều hơn im lặng để những "trái tim náu ẩn”, "đôi tai thôi rỉ máu" khi nghe tiếng đau đời sự thật bất nhẫn, phỉ nhân. Và để những mầm ủ trong vỏ cây khô cựa quậy, "ứa nhựa nơi em nở".

Tiếng thơ nỗ lực để "câm lặng", để tránh ánh nhìn trực cảm vào sự thật bất khiết nhưng tự thân lòng tiếng mở ra và phơi bày, lộ tẩy cái ác buộc hồn thi nhân phải đồng thời khổ luyện chịu đau: mỗi lần một mất mát đã từng của chiến tranh hiện về trong kí ức lại hoác miệng lần nữa hình riệt vết đau tưởng chừng đã lên da. "Tên đổ tể" kia đã làm "sông Đông" còn không "sự êm đềm"?. Không thể hòa giải, không thể tha thứ, không thể xoa dịu, không thể giãi bày. Chỉ còn có thể “bay”, "buông về mây trắng em ơi". Hồn thơ vô vọng trong cơn sốt thời đại, cái giá sự sống bằng máu và nước mắt. Có thể thấy cuộc hành trình đi tìm tín điều thiện lương thật mong manh trong không/ thời gian nghệ thuật. Điều đó tôn bồi cho tình nhân loại tha thiết trong tiếng lòng của con người luôn nhiều nỗi niềm thế sự, nhân sinh.

Hồn thi nhân "Tự vấn": Có phải thơ là ngôn ngữ của nước mắt. Chảy vô hồi đến cạn, hóa hơi, vẫn săn mặn vị muối. Cạo trên lớp giấy thiệp dấu máu hồng từng tràn chảy. Đó cũng là quan niệm nghệ thuật của nhà thơ Đinh Nho Tuấn: Đừng viết gì khi trống rỗng, phải đổ máu và nước mắt lan thấm về sự đời đổ nát rồi hãy cầm bút "vẽ đời" cho ra dáng hình thẩm mỹ đích thực. Họa những nét vẽ đậm dày tín hiệu nhân sinh và thời cuộc.

Tiếng thơ trong đêm làm “Hồn anh đỡ bơ vơ”. Thứ tiếng phô mạch giãi bày những sâu kín tâm tư. Trở thành tiếng hình tương tư, trắc ẩn, vun bồi những cơn mộng “hồi tưởng”, “Kí ức đắp bồi dính dấp thịt da”. Tiếng khởi sự cơn sốt “đối thoại” để làm người. Đối thoại với em, với anh, với quê hương, với những ngã đường, ngõ ngách, khiếp sống, với sự thật, để điều công bình được đối mặt cởi mở với những dối gạt nghịch thường mà cắt nghĩa sống động những điều “nhỏ nhoi” bắt đầu từ “em” “máu thịt và tình thương”

Hồn thơ Đinh Nho Tuấn cần cù đẽo gọt, gom lấy một vài khoảnh khắc tận hưởng thuần túy khi các giác quan nở rộ để đổi lấy sự kiên nhẫn khắc kỷ của các bài học ngôn ngữ. Để nhìn đời biết đớn đau đó mà nguôi dần trong tiếng gọi yêu thương: “Em”“hoa” (nở) đã ngàn lần xuất hiện trong tập thơ như sự bền bỉ đấu tranh và chiến thắng cái ác của “thiên thần”. Nhà thơ không phải kẻ cố gắng sáng tác thơ mà là sự sống thiêng liêng cùng các từ, ngữ, những gạch nối, khoảng cách mở lối đùa chơi. Khi soi mình vào bể đời, ngắm nhìn nhân sinh, khi thấy những “bỏng rát thời cuộc” con chữ cũng trở nên “lửa táp cháy xương”. Tiếng thơ giăng co thiện/ ác, nỗ lực chen chúc, đấu tranh trong cơ thể chật chội, kêu đòi cuộc sống phải cho tôi khát khao được yêu, nói điều tự do…

Bao lo âu cho sự mênh mông chuyển dời, thế nhưng “Con không thể quay về trốn vào bụng mẹ”. Có những người là gió, gió phải được tự do. Con không là cây để “lạc địa sinh căn”, cắm rễ sâu vào trơ khốc lạnh lùng. Con đi trong linh hồn khắc khoải, những chữ “kết án bạo lực”, chối bỏ sự tham tàn, xa xỉ, thói đời điểu giả, điêu trá, cợt đùa…

Hành trình đặt tên cho năm ngón tay. Có thể, điểm ga cuối cùng không còn ngón nào nữa để đặt tên. Bởi năm ngón kia hay hoặc cả bàn tay đã bị mài nhẵn, trơ cùi… Ý chí sống được mài kiệt trong thơ, bàn tay lao động cần mẫn đã xác xơ cụt què… Để tiếng việt lên ngôi, để choàng ôm những số phận.

Cũng không hẳn là “gió” đi rồi chẳng muốn về. Đinh Nho Tuấn ý thức sâu sắc về quê hương, lòng ái quốc vô biên thông qua những tôn thờ cái đẹp, nhà thơ đã chấm phá những nét kì họa về Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt, Pleiku… Gắn thiết đời thơ cho mảnh đất và tình người quê mình. Cùng lòng oán giận kịch liệt chiến tranh, hơn ai hết Việt Nam hiểu “chiến tranh không phải trò đùa”. Nhưng lại không phải là “cây”, yên ắng bất động nhìn ngắm diện mạo nhân sinh rồi ngậm ngùi, cúi đầu đắng cay trước bão giông. Anh là “cây” những cây nhổ rễ, phiên bạt, cây tự chuyển lưu, ăn bắt vào đất lần tìm mạch sống, rồi lại hẹn hò với gió những kiếp sống bất tận, “vượt biên”, vượt cả không gian của tâm tưởng để huyền hòa vũ trụ…:

Khi hóa là đứa trẻ lạc lõng trong những cuộc tụ họp dưới mái nhà, mặt đất là giường chiếu, đầu sông cuối bãi đứa trẻ kia đói lòng khát sữa. Khi trong thơ tôi là giai cấp công nông từ quê lên phố kiếm từng cắt lẽ. Cái cười ngây ngô nơi khóe miệng để xua đi đời bần bạc vẫn không khua nỗi những tiếng nhạc mưa rơi vào lòng bao chất chứa nỗi niềm xa quê: “giọt giọt trùng triềng bạc lẻ long đong”. Bóng “lom khom làng quê, lom khom mẹ/ Thời gian vón lại dưa cà” vẫn cán qua nỗi nghèn nghẹn nơi tâm trí dẫu đã ăn thấm “ly rượu trong veo mồ hôi”.

Giữa biển đời nhiều lạc lõng, những vấp ngã, nỗi đau, sự bất an khi phải hòa nhập và khó khăn khi học cách chung sống. Tất cả trải nghiệm tứa máu nhân sinh đó đã giúp tác giả nhận ra và biết ơn sự hoang dã, góc vườn tuổi thơ, những con đường về quê mẹ, “nồi bánh chưng đêm ba mươi”. Để rồi hồn thơ tri âm tình bằng hữu, nâng chén tri ngộ. Hay trân trọng những “nhỏ nhoi”: Chú kiến, những con sâu, những ngọn cỏ, đóa hoa những con người trong sách, những cuốn nhật ký, những tâm sự “Cát”, đã cho lấy cơ hội ta tự “ru mình chậm lại” trong tiếng thì thầm bất tận của những âm thanh, để bốc hơi và nuôi dưỡng những cái cây bị bật gốc.

Lời thơ đã trò chuyện trên nhiều mặt trận tâm tưởng, trong thơ có tiếng hình thời đại, vượt không gian, địa hạt quê hương để chiêm ngắm người từ sông rộng, núi dài nhưng rồi lại trở về nghe thanh âm “sáo diều cõng môi ru của mẹ” hãy thôi đi nỗi “chân trời góc bể lang thang”…

Thế giới ồn ào, những câu chuyện lớn, những sự kiện bận rộn, chúng ta ngồi bên nhau, vắng vẻ, ánh nến nhấp nháy, một vài biểu cảm biệt lập: “Gió dìu lá khô/…tái sinh những điều giản dị”…mơ hồ, lạ lẫm, tóc rụng trong sự lãng quên của ký ức. Đinh Nho Tuấn đi từ nỗi đau và có cả những giăng mắc hận thù về thói đời tham tàn của kẻ thống trị. Hơn ai hết hồn thơ dám đối mặt với sự tuyệt vọng để tin tưởng rồi tìm kiếm chiều sâu và ý nghĩa của cuộc sống, cũng như nghệ thuật nơi “giọt nước mắt”: “Giọt nước qua sông dài bể rộng/ lọc tinh cầu nguồn mạch trong veo/ Giọt nước qua niềm vui, bất hạnh/ Về mắt em chợt bảy sắc màu”. Đó là cuộc lặn sâu vào thế giới cá nhân và bóng tối của ngôn ngữ thấy vi diệu những bình yên, “tha thiết những lần đi” rồi trở về vẹn nguyên bên “em” nhịp đập đời thường.

Ta thấy bầu trời và đại dương nơi đáy ly: “Ly rượu tháng tư cho hai người uống/ Một là tôi và một thằng trong tôi”. “Thằng trong tôi” hẳn là “thằng” nhà thơ đang “xin lỗi chính mình”: “Xin lỗi những bài thơ rách nát/ Những bài thơ máng cũ nằm lòng/ Những bài thơ xanh vàng tím đỏ/ Những bài thơ chỉ biết chảy theo dòng”. Trong thơ tác giả luôn đau một nỗi đau sáng tạo. Luôn “thắc mắc” về mối quan hệ sắp sẵn từ ngàn đời của văn chương và chính trị: Quan hệ sở hữu quyền lực. Tác giả liên tục đặt ra ẩn dụ về năng lực tự xóa bỏ “con đường vạch sẵn” vì theo tác giả đó là “kẻ thù của sáng tạo”. Chính vì thế nhà thơ mới yêu “ngang ngược”: Tôi yêu những bài thơ viết về sự thật/ Yêu ngọn lửa nhú lên không bị phũ phàng dập tắt”. Muốn là sói hoang nên “nghiện phá hủy chính mình”. Với Đinh Nho Tuấn nghệ thuật là ảnh mặt của sự thật, nhà thơ chọn cô đơn để lòng dũng cảm vượt qua những ranh giới hiện diện ở khắp mọi nơi.

“Khi còn năm ngón chưa đặt tên” theo cảm quan của tôi, đó là thi phẩm đã hữu hình hóa vẽ đẹp thẩm mỹ của hồn thơ Đinh Nho Tuấn. Cũng có thể, đó là “nhãn tự” của tập “Năm ngón chưa đặt tên”. “Mùa gió chướng” là bối cảnh nghịch thường của cuộc sống. “Em” và “anh” nhóm đốt “những hoàng hôn” để nỗi buồn trôi theo khói dĩ vãng. Hồn thơ tha thiết điều bình thường, trong ngọn lửa không phải hóa tro tàn mà “tái sinh điều giản dị”. Để rồi “Nâng tay em chân thật/ không để chạm vết thương đời”. Mong ước được gắn kết lấy bàn tay khi chưa đặt tên. Phải chăng, là bàn tay của buổi ban đầu khi chưa bám bụi mưu sinh. Tay trắng/ trắng tay, khi lòng tham, sự ích kỉ chưa kiếm tìm…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm