TIN TỨC

“Sóng pha lê” trong thơ Mai Khoa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-22 10:09:56
mail facebook google pos stwis
1989 lượt xem

TUỆ MỸ

Xuất hiện trong dòng thơ Việt đương đại, nữ thi sĩ Mai Khoa cũng có nhiều bài thơ viết về sóng. Nhưng không phải sóng thiên nhiên đã từng thấy trong thơ của các thế hệ nhà thơ mà ngòi bút của chị chỉ nghiêng về một loại sóng đặc biệt: Sóng pha lê.

Hình tượng “Sóng pha lê” (xuất hiện trong một số bài thơ in trong tập “Sóng pha lê” năm 2011 của Mai Khoa) vừa thực vừa hư, vừa hữu hình cũng vừa vô hình. Hữu hình trong mắt người “Pha lê trong suốt hình hài thực”, “Pha lê rất mỏng”. Nhưng ngòi bút của thi sĩ nào phải viết về “hình hài thực” của pha lê mà chủ yếu nói đến cái không thực là “sóng”- Sóng pha lê. Pha lê thì làm sao tạo nên sóng? Thứ “sóng” mà Mai Khoa muốn nói ở đây có phải là “sóng lòng”, “sóng tình”? Vâng, chỉ có thể là thế. Mà nói đến sóng, người ta lại nghĩ ngay đến sự dữ dội, cuộn trào. Nhưng sóng pha lê của Mai Khoa thì không thế “Sóng nhỏ thôi bởi pha lê rất mỏng/ Mỏng như lời anh rơi xuống chạm vào thơ.Pha lê mỏng”, có lý. Nhưng “Mỏng như lời anh rơi xuống chạm vào thơ” thì phi lý. Chỉ phi lý trong nhận thức thôi chứ rất có lý đối với trái tim thi sĩ. Bởi “lời anh” là lời yêu, lời thì thầm của trái tim yêu. Chỉ thì thầm, nhỏ nhẹ, mỏng manh vậy thôi nhưng một khi lời yêu ấy “rơi xuống chạm vào thơ”, chạm vào tim Em thì tức khắc biến thành “sóng”- sóng pha lê. Phải, có ai không thấy lòng rung động, xao xuyến, bồi hồi khi đón nhận lời yêu từ người mình yêu thích? Một tình yêu trong trẻo, tinh khôi đã dậy lên trong trái tim Em từ lời yêu anh nói. “Sóng nhỏ thôi” nhưng có sức làm rung động đến miền sâu thẳm và lan tỏa đến vô cùng trái tim Em. Dùng phương thức chuyển hóa cái vô hình “lời anh” thành cái hữu hình “mỏng” không phải Mai Khoa là người đầu tiên nhưng thủ pháp ấy đã thực sự gây ấn tượng về một tình yêu rất nữ tính: Đón nhận lời yêu của anh, Em vô cùng hạnh phúc, rung cảm dạt dào nhưng không ồn ào, vồ vập.

Sóng pha lê, sóng tình yêu trỗi dậy trong lòng người con gái khi bước vào yêu cứ thế tiếp tục lan tỏa theo mạch cảm xúc của Mai Khoa:

 Những vòng sóng tưởng vô cùng bình lặng

Lại khởi đầu của thương nhớ pha lê

Đã gọi là “sóng” thì làm sao mà “bình lặng” được. Nếu không dữ dội, cuộn trào thì cũng dào dạt say mê. Đúng vậy, pha lê lúc này đã hóa thành rượu. Một thứ “Rượu cất lên chất chứa ân tình” khiến cho người trong cuộc không thể “Ngửa cổ lên cùng pha lê uống cạn”. Uống cạn rượu pha lê cũng chính là “uống lời yêu say đắm”, là “giọt tình em nhấp cạn”. Nói đến giọt tình, chợt nhớ đến “giọt Valentine” trong thơ Nguyễn Ngọc Hưng “Em là rượu của tinh hoa trời đất/ Một giọt thôi đủ một kiếp lưu đày/ Một giọt thôi đủ nghìn năm chếnh choáng”. Thế đấy, chỉ một giọt tình thôi mà đánh đổi cả một đời kiếp con người khi sống trên cõi thế gian. Vậy bảo sao Em không tự nguyện “làm kiếp sóng pha lê” để yêu và được yêu. Một khi “uống cạn” lời yêu, “nhấp cạn” giọt tình thì làm sao tránh khỏi “Chút nồng nàn khiến con tim náo loạn”. “Sóng” đã nổi lên rồi đấy dù chỉ nhận được “chút nồng nàn” thôi. Bởi có con tim nào không loạn nhịp khi yêu? Chẳng phải “Những vòng sóng tưởng vô cùng bình lặng”, tưởng vô cùng dịu dàng, nữ tính ấy cũng “náo loạn” rồi đấy sao. Có gì lạ đâu khi con người sống thật với trái tim mình, không lừa dối bản năng. Lúc này “Pha lê thấu tận cùng ước mong” của Em, của hai trái tim yêu nên “Pha lê nguyện làm nơi hò hẹn/ Chứa men say sóng sánh sắc màu”. Đẹp quá! Pha lê “sóng lên màu”, pha lê “sóng sánh sắc màu”. Đó là màu tình yêu lứa đôi trong sáng, tinh khôi say đắm vô ngần.

Pha lê trong suốt, rất dễ vỡ nhưng pha lê của Mai Khoa thì rất khác:

Pha lê mỏng mà dẻo dai bền chặt

Thủy tinh em bất biến với lửa hồng

Hóa ra pha lê của Mai Khoa không phải làm nên từ cát mà nó được làm bằng sợi - sợi tình để “buộc đời nhau” của đôi lứa yêu nhau nên mới “dẻo dai, bền chặt” và “bất biến” dù có tác động của bao thử thách giữa cuộc đời.

Khi yêu, người con gái có lo ngại gì không? Có đấy: “Sóng pha lê lại lần nữa đi tìm/Nơi môi em đặt dấu son bờ vực”. “Dấu son bờ vực” là một hình tượng thơ giàu sức gợi và đã mở ra chiều kích khác trong nội tâm người thiếu nữ khi yêu: bước vào đường yêu, em đứng trước cửa thiên đường hay đứng bên “bờ vực” thẳm? Tình yêu liệu có phải chỉ hoàn toàn là trái ngọt? Liệu em có cùng người yêu đi đến cuối đường tình? Nếu tình yêu đổ vỡ, thiệt thòi chẳng phải chỉ em mang... Những lo nghĩ băn khoăn ấy cũng rất nữ tính. Rõ ràng, chỉ là phụ nữ mới hiểu tâm lý của giới mình sâu sắc và tinh tế đến vậy. Nhưng nỗi lo ngại ấy chỉ thoáng qua thôi chứ trong thâm tâm em “Biết rằng mình đang yêu và đang được yêu làm cho cuộc sốngý nghĩa, ấm áp và giàu có, điều mà ngoài tình yêu ra, không có gì có thể làmđược” (Danh ngôn). Và Em hiểu rằng một lần với tay chạm đến pha lê là “Với một lần chạm cả trời sao”. Phải, chạm đến tình yêu là chạm đến thứ hạnh phúc lớn lao nhất, lãng mạn nhất và đẹp đẽ vô cùng.

Hình tượng “Sóng pha lê” là hóa thân của nhân vật trữ tình (nhà thơ). Khi thì nhập thân trực tiếp vào pha lê để tận hưởng, chiêm nghiệm tình yêu ngọt ngào. Lúc thì phân thân đối diện, đối thoại với pha lê để suy tư, ngẫm ngợi về tình yêu. Cũng có khi pha lê là hiện thân của tình yêu, là đối tượng cũng là đích đến của nhân vật trữ tình. Chính vì thế mà “Sóng pha lê” chuyển động trong không gian thơ Mai Khoa mang nhiều màu sắc khác nhau, với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Khi thì rạo rực say mê, khi thì dịu êm, nhỏ nhẹ, lúc lại trầm tĩnh lắng sâu. Cũng chính vì thế mà “Sóng pha lê” hiện lên qua trang thơ Mai Khoa không đơn điệu. Nó cứ tự nhiên dắt tay người đọc đi vào khám phá thế giới nội tâm của nhân vật trữ tình. Khám phá và đã nghe được âm thanh của “Sóng pha lê”. Đó là âm vọng của trái tim người phụ nữ chan chứa tình yêu đối với con người và cuộc đời, âm vọng của khát khao sống. Sống là yêu, là dâng hiến cho đời. Tình yêu ấy, khát khao ấy sáng trong, đẹp đẽ như pha lê. Tuy đã ở tuổi chiều mà âm vọng của “Sóng pha lê” Mai Khoa vẫn còn âm vang, lan tỏa. Tình yêu người, yêu đời của người phụ nữ tuổi chiều vẫn nồng nàn, ý nhị, thâm trầm.

Thơ Mai Khoa thực sự chưa mới trong ngôn ngữ thơ, trong cách thể hiện và trong xây dựng hình tượng thơ cũng chưa nhiều sáng tạo. Nhưng với “Sóng pha lê”, có thể nói đó là hình tượng thơ ghi dấu ấn sáng tạo của nhà thơ Mai Khoa.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm