TIN TỨC

Sức bền của ngòi bút

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-03-29 16:57:07
mail facebook google pos stwis
2361 lượt xem

BÙI VIỆT THẮNG

(Nghĩ từ Mây hồng, tập truyện ngắn của Nguyễn Trường, Nxb Thanh niên, 2023)


Duyên văn, hay là sức bền của ngòi bút

Nhà văn Nguyễn Trường đoạt ngôi Khôi nguyên Cuộc thi truyện ngắn 2015-2017 báo Văn nghệ với chùm truyện Vương quốc mộng mơ, Quà tặng tương lai, Mùa thanh long. Giải thưởng văn chương như là một thứ “vương miện” của nghệ thuật ngôn từ, một cuộc vượt vũ môn ngoạn mục trong nghề chữ. Nhưng bằng trải nghiệm văn chương, những độc giả tinh tường sẽ không thỏa mãn với “mức xà” mà nhà văn mình yêu thích vừa vượt qua, trái lại luôn hồi hộp đón chờ và kỳ vọng vào những thành tích mới, kỷ lục mới của người đó trong tương lai gần và xa. Tính đến năm 2023, nhà văn Nguyễn Trường đã làm chủ một “văn sản” không hẳn đã đầy đặn về số lượng nhưng rõ ràng tiệm tiến chất lượng nghệ thuật, hay nói cách khác là thặng dư hàm lượng văn hóa: bốn tiểu thuyết (Hơn cả tình yêu, Mộng đế vương,  Đi qua thời áo trắng, Tâm linh) và ba tập truyện ngắn (Thiên nhãn, Khai khẩu, Mây hồng), chưa kể đến một tập tiểu luận - phê bình viết chắc tay Văn học - Một hướng nhìn. Riêng viết truyện ngắn, kể từ Đêm chiến tranh in vào đầu những năm chín mươi thế kỷ trước đến nay, nhà văn đã có một “pho” chừng khoảng bốn chục “cái”. Nói duyên văn hay dấu ấn Nguyễn Trường trên văn đàn đương đại, hẳn là nhờ vào truyện ngắn. Tôi nghĩ, sau Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Bảo Ninh có Sương Nguyệt Minh, Trần Thùy Mai, Nguyễn Trường, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thi Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư đã góp công tôn cao cái nền vững chắc của truyện ngắn dân tộc thờì nay.

 Cổ nhân hay nói đến chữ “duyên” áp vào mỗi số phận con người, nếu vận vào lĩnh vực văn học nghệ thuật lại càng sát thực. Thi sĩ Xuân Diệu có bài Thơ duyên rất hay, càng đọc càng thấy ý vị (cái duyên tạo nên sự hấp dẫn của thơ ca cũng như cái duyên tạo nên sự hấp dẫn của một cô gái dẫu nhan sắc chưa đến độ “nghiêng nước nghiêng thành”). Đọc rồi vận vào chuyện viết lách của giới văn chương  càng thấm thía. Theo cách diễn đạt của giới lý luận - phê bình thì đó là năng lực “neo chữ” của người viết khiến cho chữ được “neo” vào ký ức độc giả. Không nhiều nhà văn như Nguyễn Trường trong bốn năm liền được chọn Top 10 truyện ngắn hay báo Văn nghệ (2016, 2017, 2018, 2020). Đặc biệt hơn, báo Văn nghệ đã ưu ái dành hẳn một trang đăng ý kiến của độc giả và nhà văn về thiên truyện Khai khẩu (đăng báo Văn nghệ số 35+36, ra ngày 1/9/2018), đây là  một trong những “cái ngắn” đậm đà phong cách Nguyễn Trường (tâm lý - triết lý - trữ tình). Trên báo Văn nghệ số Tết Giáp Thìn, nhà văn Nguyễn Trường đứng chân truyện ngắn Tác phẩm còn lại. Với “cái ngắn” này, tôi nghĩ, số báo Văn nghệ Tết càng thêm “bắt mắt”, thậm chí nhiều bạn văn còn nói có thể còn tăng tirage (số lượng in) nữa.
 

 Đi tìm sự thật trong những mảnh vỡ của số phận

Mây hồng là tập truyện ngắn thứ ba của nhà văn Nguyễn Trường, gồm 12 truyện (Di cảo của cha, Người từ nước Mỹ trở về, Người của đảo, Bữa cơm chiều ba mươi tết, Người trong cõi mộng, Đồi Phượng Hoàng, Minh châu tỏa sáng, Mây hồng, Chuyện trên biển Cần Giờ,  Người viết sử, Điểm gặp lịch sử, Quà tặng tương lai). Mỗi truyện, trừ truyện Mây hồng được dùng làm đặt tên cho cả tập, tôi hình dung, như là những “mảnh vỡ” của số phận, của kiếp người, như là những “góc khuất” của đời sống xã hội và con người trong cõi nhân gian lắm cuộc bể dâu, tang thương ngẫu lục. Có thể thấy chủ đề xuyên suốt nhiều truyện trong Mây hồng là nỗi niềm và khát vọng của con người trên hành trình đi tìm sự thật, cao hơn và cuối cùng là chân lý. Di cảo của cha là một thiên truyện cô đặc được chủ đề trung tâm và quan  trọng này - sự thật mang tính khách quan hay mang tính chủ quan, luôn luôn là một câu hỏi lớn và khó với con người mọi thời đại, mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi thế hệ. Sau bao biến cố thăng trầm, sau nhiều trải nghiệm người con mới ngộ ra “Nhưng Cha ơi, việc của đời xưa từng mơ hồ, lẫn lộn, phải tìm ra sự thật mới được vinh danh”. Truyện Người từ nước Mỹ trở về, theo tôi, là một “biến tấu chữ” trong cách viết của Nguyễn Trường, nếu có thể nói thì nó hao hao dạng thức “xã hội ba đào ký” trước 1945 do nhà văn Nguyễn Công Hoan cầm trịch trên báo chí từng làm sôi động văn đàn. Người Việt có lắm giấc mộng nào là thành đế vương, nào là thành triệu phú, nào là thành nhân tài, thành “sao”,....Nhưng đa số lại thiếu hẳn cái căn cơ là tinh thần thực tiễn nên mới ăn quả đắng như nhân vật anh chàng Thắng trong truyện, như lời nhận xét của cô bạn gái có cảm tình  với anh chàng đi tìm miền đất hứa “Tại bạn không cố gắng. Sống được trên nước Mỹ yêu cầu người ta phải có nghị lực ghê gớm vì đó là cả một cuộc cạnh tranh khốc liệt để làm giàu, còn bạn vẫn không thoát ra khỏi những chiến thắng hư ảo”.

 Trong Mây hồng, ngòi bút của nhà văn hướng tới một mạch (dòng chảy) đời sống khác - nơi những con người bình thường nhưng tử tế trú ngụ, tỏa sáng, giữ tròn thiên lương, bảo tồn nhân cách trong bất kỳ tình huống nào của đời sống. Theo tôi, nước ta hiện không thiếu những người thông minh (cứ xem số lượng mấy chục nghìn tiến sĩ thì rõ), song le đáng tiếc ta còn thiếu những người tử tế. Nên đời sống cứ loanh quanh, eo xèo, đôi khi như là bế tắc, kiểu như “mảnh đất lắm người nhiều ma” vậy. Đi tìm con người tử tế, nâng cao vị thế của nó trong nghệ thuật ngôn từ, với nhà văn Nguyễn Trường, theo tôi là một niềm say mê có tính bẩm sinh cốt cách từ trong máu huyết, sau đó hiện hình trên từng trang văn ngày càng rõ ràng như dưới thanh thiên bạch nhật. Quà tặng tương lai (một trong ba truyện ngắn được giải thưởng báo Văn nghệ 2017, như đã nói ở trên) đã làm phát lộ phương diện quan trọng của sự viết văn - đề cao tình nghĩa của con người tử tế trong lối sống, văn hóa ứng xử. Nhân vật người Mẹ trong truyện hiện lên như một liệt nữ. Viết theo hướng này thực sự nhà văn đã thể hiện cái ý thức chắt chiu cái đẹp. Người Mẹ trong truyện không bao giờ phản bội lý tưởng về cái đẹp của mình, dẫu có thể là bản năng và tự phát, vì suốt đời bà đã trung thành tuyệt đối với nhân nghĩa. Bà Mẹ là một mẫu mực của con người bảo lưu  được ký ức lương thiện. Các nhân vật ấn tượng nổi bật khác như Danh Tốt trong Người của đảo, Mỹ Hương trong Chuyện trên biển Cần Giờ,...đều là những con người bình thường, thậm chí đôi khi bị khuất lấp giữa dòng đời được nhà văn đặc biệt quan tâm với nhiệt hứng khích lệ, cổ vũ, thậm chí có sự phóng đại (khuyếch đại) thẩm mỹ cái tốt và cái đẹp, theo sự dẫn dắt của nguyên lý tối thượng “cái đẹp chính là đời sống’.

Nhân vật được ghi vào sử sách trong truyện ngắn Nguyễn Trường có cái đặc tính “hòa âm” giữa bản năng và lý trí, giữa khả năng thích nghi thời cuộc, tầm nhìn lịch sử và tinh thần tiết tháo kẻ sĩ, tiêu biểu như nhân vật Đại tướng Dương Văn Minh - trên ngôi vị Tổng thống cuối cùng (chỉ trong ba ngày) của Việt Nam Cộng hòa (Chính quyền Sài Gòn) trong truyện Điểm gặp lịch sử. Đồng ý rằng đã là truyện đều hư cấu, song Điểm gặp lịch sử gây ấn tượng với độc giả như thể một phóng sự văn học thú vị “Dương Văn Minh cầm tấm ảnh mà ông đạo Dừa đã trả lại ngẫm nghĩ “Chỉ có con đường thuận theo lòng dân là thắng”; ông đã thẳng thắn trả lời Francoiis Vanussème - Tướng tình báo ở Đại sứ quán Pháp tại Sài Gòn “Tôi từng làm việc cho Pháp, rồi cho Mỹ, đã quá đủ rồi, bây giờ không dại gì sa vào bẫy của nước lớn”. Lời nhận xét của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt về Đại tướng Dương Văn Minh quả là nhân ái và công tâm “Còn ông đã góp phần cứu Sài Gòn này không bị đổ nát, cứu sinh mạng hàng vạn con người. Nhất là không đưa đất nước lại rơi vào vòng xoáy chiến tranh”. Chắc hẳn nhiều người đã thích thú đọc sách Dương Văn Minh - Tổng thống cuối cùng của Chính quyền Sài Gòn của nhà báo - nhà văn Nguyễn Trần Thiết. Nhưng nếu cần một ấn tượng duy nhất và ám ảnh thì có thể đọc thiên truyện Điểm gặp lịch sử của nhà văn Nguyễn Trường, cũng có thể đủ đầy.
 

Những biến tấu chữ hay là sự linh hoạt bút pháp

Trong các bài viết trực tiếp hay có liên quan đến nhà văn Nguyễn Trường, tôi từng khẳng định rằng, dường như “ông” này hoàn toàn xa lạ với các chủ nghĩa (ism) thời thượng đang như một cơn sốt từ nhẹ chuyển sang nặng trong văn giới nước nhà, rõ nhất ở thế hệ F+ (7X, 8X, 9X) - nào là Hậu hiện đại, Hậu thực dân, Nữ quyền luận, nào là Phi lý, Phân tâm học, Sinh thái học,... đang như nấm mọc mùa xuân. Những động thái này biểu hiện sự xa rời hay cắt đứt với truyền thống dân tộc trong sự nỗ lực (hay là nôn nóng thì đúng hơn) hiện đại hóa nghệ thuật ngôn từ nhưng đáng tiếc thiếu sự chính cương, thiếu sự hợp lý hợp tình, hẳn vì nghệ thuật không phải là thời trang.

Đọc văn Nguyễn Trường (tiểu thuyết, truyện ngắn) tôi thấy nhà văn dường như thể cứ đủng đỉnh, tự tại, tự tin “lối cũ ta về” khi viết. Cốt cách này lần nữa hiện hình rất đậm đà trong tập truyện ngắn thứ ba có tựa Mây hồng. Tính truyền thống của các thiên truyện chính là nương tựa (dựa hẳn) vào các “tích trò”, “sự tích”, “chuyện” hiện tồn trong thực tế, hoặc giả trở thành như là những giả định về đức tin của tâm linh. Những thiên truyện như Di cảo của cha, Quà tặng tương lai gần với mô hình cổ tích, nhưng là cổ tích thời hiện đại; lại có những “cái ngắn” gần với tích tuồng như Người từ nước Mỹ trở về;  có cái ngắn gần với thể truyền kỳ như Người trong cõi mộng, Mây hồng,...

Nếu nói phong cách văn xuôi Nguyễn Trường được xác nhận trong khung khổ “tâm lý - triết lý - trữ tình” thì quả thực tập truyện Mây hồng đã thực thi được cái gọi là “neo chữ”, cũng bởi sự biến ảo của bút pháp. Mười hai truyện trong tập nương theo những mạch cảm hứng khác nhau kiến tạo nên những bút pháp linh hoạt: lúc hoạt kê (Người từ nước Mỹ trở về), lúc huyền kỳ (Người trong cõi mộng), lúc tân văn (Điểm gặp lịch sử), lúc trữ tình (Quà tặng tương lai), lúc triết luận (Di cảo của cha), lúc tâm lý (Đồi phượng hoàng),...

Nguyễn Trường có hai truyện viết rất kỹ và thú vị về nghề văn: Di cảo của chaTác phẩm còn lại (in trên báo Văn nghệ số Tết Giáp Thìn). Hai thiên truyện này, theo tôi, có yếu tố tự truyện. Đọc hai thiên này tôi liên hệ tới bài viết hàm súc và sâu sắc của Nguyễn Minh Châu, có tựa Nam Cao “Thật thế, cuối cùng, ta có thể nói rằng cả một đời cầm bút của Nam Cao cứ đau đáu nhìn vào cái nhân cách. (....). Văn chương Nam Cao làm người ta “mệt” vì thế, vì những dòng văn xuôi của ông như một sợi dây thừng cứ bện lấy chúng ta, không cho phép một ai trong chúng ta  rời khỏi chính mình, quay lưng lại với phần lương tâm nhân cách của chính mình, hoặc tự nhìn mình bằng con mắt bông phèng hoặc nửa vời, để có thể sống vô trách nhiệm, buông thả” (Nguyễn Minh Châu toàn tập, năm tập, tập V, Nxb Văn học, 2001).

Mây hồng của nhà văn Nguyễn Trường dĩ nhiên chưa phải là một cái gì toàn bích, dễ hiểu vì tất cả chỉ là tương đối. Nhưng có thể khẳng định, tác phẩm góp một tiếng nói nghệ thuật mới mẻ, đầy trách nhiệm về xây dựng và bảo vệ nhân cách như một hoạt động tinh thần mang ý nghĩa văn hóa. Vì tột cùng văn hóa là con người.

Hà Nội, 2-2024/B.V.T

Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm