TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Tâm hồn tinh tế bẩm sinh của “Chàng thơ” Xuân Diệu qua thi phẩm Vội Vàng

Tâm hồn tinh tế bẩm sinh của “Chàng thơ” Xuân Diệu qua thi phẩm Vội Vàng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-01-03 13:22:26
mail facebook google pos stwis
2185 lượt xem

Trần Tuấn

Đôi đồng tử của “chàng” nhấp nhánh như ánh sao, đen và sâu không đáy, ẩn mờ sau bờ mi màu sẫm tuyệt vời, ánh lên những đốm lửa vui tràn đầy sinh lực. Viền tóc mềm mại chảy lửng lơ trước vầng trán toát lên vẻ hồn nhiên, tinh nghịch. Tính tinh tế của tâm hồn thể hiện qua nét môi đỏ mọng như hoa anh đào. Những nếp gấp nơi khóe miệng, nơi hàng lông mày biểu đạt sự phong phú của nhiệt tâm. Chàng là Xuân Diệu, người "nồng" và "trẻ" nhất trên chiếu thơ đương thời. “Chàng” đã đưa cái nồng, thắm, dào dạt vào thế giới thi ca vốn tẻ lặng, bình yên này. Sức xuân đang ca hát, nhảy múa trong tâm linh “chàng” một thoáng mê đắm như muốn níu kéo lòng người. Vội Vàng là phút giây bừng sáng nhất của tình yêu trong tâm hồn thi nhân, sự cao đẹp từng khoảng khắc đó, vĩnh cửu qua một đời người.

Nhà thơ Xuân Diệu

Triết lý nhân sinh độc đáo trong Vội Vàng có được nhờ tiên cảm sâu sắc, cùng dòng năng lượng giàu đam mê của nhà thơ. Đó là khái niệm sống vội vàng, một lối sống rất trần tục và rất con người của một tâm hồn tinh tế bẩm sinh.

Vội vàng  "tuyên ngôn" cho thế gian thấy được sự ngắn ngủi của đời người và nên xây dựng một tốc độ sống gấp gáp để nếm nhận đủ đầy những nồng ấm, êm say của cuộc đời tươi đẹp này. Trong những năm tháng đó, thơ ca hiện đại đang nương náu ẩn mình trong nỗi buồn sâu sắc của cả một thế hệ chìm lút trong cơn đại hồng thủy của Chủ nghĩa Thực dân. Việc “thiếu quê hương” khiến họ lúng túng trong những góc tối của quá khứ, trong tình yêu và trong khung cảnh thiên nhiên đất nước. Có bao nhiêu nhà thơ yêu cuộc sống, yêu một cách nghiêm túc nhưng vẫn trống rỗng, buồn, cô đơn, lạc lõng. Xuân Diệu khác, nhà thơ mang đến một hơi thở rất thực tế, nhưng vẫn giàu cảm xúc, đó là giai điệu của tình yêu. Tâm hồn thi nhân chóng mở cửa đón mùa xuân với sự nguyện hiến thiết tha, cháy bỏng.

Chàng muốn mặt trời ngưng chiếu sáng để màu đừng phai, chàng muốn gió ngừng thổi, làm ơn đừng bay hương. Chàng đang muốn vì cái đẹp mà sẵn sàng chống lại tạo vật : “Tôi muốn tắt nắng đi/Cho màu đừng nhạt mất/Tôi muốn buộc gió lại/Cho hương đừng bay đi”

Luật lệ của tự nhiên đã định sẵn không thể thay đổi, chủ thể cảm xúc nồng nàn, cuồng quyến, tham vọng tuột bậc muốn can thiệp, giành lấy quyền được tự mình dừng lại cái qui luật đã mặc định của thượng đế. Chìa khóa của khát vọng đó là giữ lại vẻ đẹp của cuộc sống để tận hưởng chìm đắm. Quả là một tâm hồn cuồng nhiệt, nồng thắm mới dám táo tợn tranh quyền đoạt vị với hóa công.

Tình yêu cuộc sống của chàng chưa dừng lại ở ham muốn mà còn ở sự khát khao được cháy hết mình, bởi mặt đất là thiên đường, để rồi chàng sợ hãi, run rẩy trước dòng chảy nghiệt ngã, trôi lăn của vạn vật mà cuống quýt, rạo rực. Xuân Diệu đã giải thích độc đáo về thời gian để bày tỏ tình yêu róng riết của mình và trả lời cho các “thi dân”, vì sao anh muốn tắt nắng, ngừng gió.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

...

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Miền cảnh đẹp như ru đó không phải là chốn tiên thiên mà đều gần gặn, quen thuộc xung quanh chúng ta. Xuân Diệu đã thêm những cử động của linh hồn để làm cho những cảnh vật  kéo giãn, tươi mới, tưới tắm sắc màu mùa xuân trên trang giấy, như nha phiến quyến rũ lòng người. Sắc Xuân được chuyển tải bằng phương pháp liệt kê, biến tất cả những vẻ đẹp thực tế thành một bữa tiệc thơ mà Chàng vẫy tay chào mời. Xuân Diệu đã đốt cháy hiện trường cõi mơ, xua mọi người ra thế giới thực, để gắn bó với cuộc sống hiện hữu muôn sắc ngàn hương, tươi trẻ, nồng đượm. Trong cuộc dạo chơi trần gian đó, chàng không quên trao tình yêu cho con người. Những phận người trong thơ Diệu không xuất hiện với những hình thức, chân dung cụ thể mà thông qua những so sánh đặc biệt, nhà thơ đã trưng ra những mỹ cảm nghệ thuật mới, độc đáo, ý vị: “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”; “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

Nếu như đoạn thơ trên tác giả xây dựng những ảnh tượng lấy từ những sự vật của thiên nhiên thì lúc này bình mình lại nhấp nháy trong đôi mắt cô gái, tháng giêng ngọt như một cặp môi gần. Nay Xuân Diệu táo tợn lấy nhân loại làm thước đo cho vẻ đẹp của đất trời, đó là cách thi sĩ khẳng định, nâng cao, tôn vinh con người và sự sống, con người chính là ưu phẩm của đấng toàn năng.

Nhưng con người không thể chống lại các qui tắc của tạo vật. Xuân Diệu đã sử dụng một bài thơ dài để lập luận, tuyên xưng về sự tàn ác trong luật pháp của hóa công. Anh đếm được từng bước đi lạnh lẽo của thời gian :“xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.

Thời gian không phải lưu thông không một gút sợi như ta từng nghĩ, nó lặng lẽ đi và uống lẹm những giấc mơ đẹp. Mỗi phút giây là một mất mát, thời gian rút máu thanh xuân và cuộc đời. Nhà thơ đã trưng ra bằng chứng phạm tội của thời gian bằng một sự khiêm hạ khi nói về thực tại “Lòng ta rộng nhưng lượng trời cứ chật/ không cho dài thời trẻ ở nhân gian”.

Sau tất cả, Xuân Diệu cũng như bao nhà thơ mới khác, yêu say đắm nhưng cũng đốn tận tim, bàng hoàng cơ thể vì luật lệ khắc kỉ của đấng quyền năng, chàng lo lắng, buồn đau cho những “niềm đáng tiếc”. Quan niệm về thời gian của tác giả trong Vội vàng cũng chính là quan điểm triết học sâu sắc về một đời người. Do đó, Vội vàng không phải là một bài thơ buồn, cũng không phải là một bài thơ nặng nề, ảo ảnh về sự suy tư. Ngược lại, nó cực kỳ giàu “sinh quyển” nhờ sự hùng biện sắc sảo của nhà thơ đối với đất trời về lí do tại sao tác giả đưa ra quan niệm sống vội vàng. Thơ của Xuân Diệu luôn đầy nhiệt huyết, nhiệt tình, và hàm chứa tính triết luận uyên nguyên. Nhà thơ nói: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm....Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào người”

Ý nghĩa của bài thơ được thực thành từ sự thôi thúc "buông" để sống, cống hiến và tận hưởng. Xuân Diệu khuấy động mọi người bằng cách đưa ra những điều kiện sống mạnh mẽ nhất, hãy đến ôm, say, siết và thậm chí cắn riết. Anh không lãng phí, bỏ lỡ một phút hân hưởng thuần lành nào trong cuộc sống. Những khoảnh khắc này phải toàn tâm, toàn trí, toàn hồn để say mê nếm trải. Con người trong cuộc sống đôi khi cảm thấy yếu đuối, mềm mại, chán nản... nhưng ở mọi thời điểm, đặc biệt là ở tuổi trẻ rất đáng để trải nghiệm nên đừng hoài phí thanh xuân.

Giá trị lớn nhất của triết học là giúp cho con người nhận ra rằng bản thân mình là một hiện hữu, nhìn nhận cuộc sống như một thực tại sống động. Vội vàng chỉ là một bài thơ, không phải là một báo cáo luận đề triết học nhưng Xuân Diệu thông qua thi cảm tinh tế của mình cũng xứng đáng được liệt kê trong số những nhà triết thuyết vĩ đại. Thơ ca giúp mọi người nhận diện cách sống, giúp chúng ta nhận thức được vai trò, giá trị của con người trong cuộc sống, đó là yếu nghĩa mà một kiệt tác nghệ thuật hướng tới người đọc.

Đã vắt qua hai thế kỉ trôi lăn kể từ ngày Xuân Diệu bước đến thi đàn, cũng đã biết bao biết đổi bể dâu về nhân tình thế thái, quan niệm xã hội, ngay cả bản thân tình yêu cũng có nhiều những biến đổi bạo liệt. Thế nhưng sự nồng, trẻ và quan niệm sâu sắc về tình đời, tình người trong bài thơ Vội vàng vẫn sống mãi trong người đọc bao thế hệ, đánh thức bao hoài vọng, bao khát khao cao quí, muốn được sống hết mình, yêu hết mình và khi cần được hi sinh cho tình yêu.

                                                                                  T.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm