TIN TỨC

Xuân Trường ly này tôi cạn trời xanh…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
482 lượt xem

NGUYỄN THANH MỪNG

Hồi Xuân Trường còn trên “phố núi cao phố núi mờ sương”, anh hay gửi tác phẩm cho Văn nghệ Bình Định và thỉnh thoảng ghé Quy Nhơn, đặc biệt là trong các dịp Nguyên Tiêu. Tôi lặng lẽ cảm mến một nhà thơ ít nói, nụ cười hiền ẩn chứa những trầm tích của thời gian, lúc như vô vi lúc thì kiêu bạc. Sự chân tình với bè bạn và với một tình yêu thơ ca vô bờ bến trong anh đã kết nối bước chân lãng du với những miền đất, những tâm hồn, không to tiếng cao giọng, chỉ rủ rỉ rù rì, mây trôi gió thoảng, nhưng khi kết nối lại thì không ít thấm thía, vang vọng.

Trong vật đổi sao dời, tình cảm bạn bè cũng như niềm say mê của nhà thơ ngày nào vẫn còn nguyên vẹn. Giữa cái mạch tiếp nối của truyền thống “Chùm thương nhớ” (1999), Tím xưa (2000), “Không gian em” (2005), “Nắng trầm tư” (2008), một hôm tôi gặp một Xuân Trường thi sĩ quen thuộc trong mới lạ, mới lạ trong quen thuộc. Cảm giác đó ùa về khi chàng thi sĩ đến định cư ở Sài Gòn, để lại sau lưng các thành phố miền Trung và cao nguyên với tuổi trẻ dãi dầu, xa cách nhiều năm, bỗng một hôm gửi tặng tôi tập thơ “Chiếc cằm nũng đôi” mới in chưa ráo mực.

Tôi chú ý đến một giọng điệu khói sương trong thơ Xuân Trường, nửa ở thực tại nửa ở hư ảo: “Con sông xưa vẫn lặng thầm- Đôi bờ hưng phế dịu đằm vào nhau”; “Dang tay vớt nửa câu thề- Bẻ đôi từ lúc ngõ về không em”; “Phố nghiêng mắt ướt hoa đèn- Lang thang ta nhặt hờn ghen một thời”; “Tiếng đàn tài tử chia hai- Nửa cầm chân khách nửa cài ngực tôi”… Thơ cũng như ca dao Việt Nam, có nhiều bài ẩn giấu một cốt truyện bên trong, ví như: “Nàng nói với ta nàng hãy còn son- Ta đi qua ngõ thấy con mình bò- Con mình những trấu cùng tro- Ta đi gánh nước tắm cho con mình”. Xuân Trường trong lục bát dài “Chiếc cằm nũng đôi” đã viết một thiên tình sử, pha chút bi hài trong giọng điệu trữ tình dùng dằng, khi có, khi không, khi mất, khi còn: “Thoáng gì trong mắt xa xăm- Câu thơ bối rối chiếc cằm nũng đôi”. Ở gương mặt mỹ nhân, đôi mắt lá răm, chiếc răng khểnh, lúm đồng tiền cũng thành “vực thẳm ái tình”, nó chôn giấu bao nhiêu bí ẩn mà thi sĩ của muôn đời đắm đuối, và con thuyền tình Xuân Trường đã rơi đúng “chiếc cằm nũng đôi”!

Cái gốc “đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm” của anh, trong bóng dáng người cha đã khuất: “Lưỡi cày rốc đất ruộng trưa- Dấu chân sót lại đồng xưa ướt nhòa”, có người mẹ hiền hy sinh tần tảo: “Với lời trăng bến gió sông- Bảy lăm năm ấy cô phòng một tiên”; có cả mối tình hoa niên: “Cắn tay em bảo xưa rồi- Thôi đừng nhắc nữa kẻo đời nôn na”… Xuân Trường đã gói theo hành trang xa xứ, nén chặt trong trái tim để mỗi lúc mềm lòng thì ngồi tư lự với những vần thơ sông dài biển rộng. Anh đi nhiều, hít thở thật sâu hương vị sẻ chia của cõi người nhất là những lúc giông tố của đời, với sự hồn nhiên của một lòng thơ chân chất và cả sự lịch lãm của con người hào hoa. Ký ức lịch sử văn hóa, đôi lúc đã đọng lại trong hơi thở ấy: “Ngàn năm mấy nỗi Đồ Bàn- Dấu chân huyền sử hoang tàn phế đô- Gió ngồi chẻ nắng hư vô- Cõi người cõi tháp lắng mờ trong nhau”. Trong cái cõi tháp ấy, một cơn say, anh đã gặp bóng dáng Huyền Trân: “Từ cõi ngàn thu ta trở lại- Dặn dò con cháu chút vậy thôi- Lòng vẫn cong theo hình Tổ quốc- Vòng tay hải đảo mấy nghìn đời”.

Trở lại Đà Nẵng, Pleiku, hay vào Nam Bộ, ra Bắc Hà, Xuân Trường vẫn giữ nguyên phong thái đa cảm đa mang cố hữu. Về Quy Nhơn đất cũ, anh tung mây bạt gió với bạn bè trong cốc rượu Bàu Đá, trên ngọn cỏ phiêu bồng xa xưa, cái ngọn cỏ mà nhà thơ lẫy lừng Hàn Mặc Tử đã: “Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng- Những sợi hào quang vạn thước vàng”. Một Quy Nhơn đa mang của Xuân Trường: “Em ngày xưa một câu gì- Cho tôi dại đến xuân thì đảo điên”. Một Đà Nẵng đa mang của Xuân Trường: “Đà Thành giờ thênh thang ghê- Chỉ riêng mưa bão không hề đổi thay”. Một Huế đa mang của Xuân Trường: “Tay em thưa nhặt sênh tiền- Áo khuya cợt gió lật viền bão giông”. Một Vĩnh Long đa mang của Xuân Trường: “Câu thơ gãy nửa nhịp rồi- Mà còn nghe gió cứ ngồi đếm hương”. Một Hà Nội: “Chiều mồ côi con gái phía Tây Hồ…”. Và một Thái Nguyên, một Đà Lạt, một Nha Trang, một Phan Thiết, một một Tây An, Kông chro…ở đâu Xuân Trường cũng giãi lòng ra trăng với nước với đất, với người, với thực tại và với mộng mơ, rót trong chén rượu lang bạt kỳ hồ, rót xuống môi người những nợ duyên không kỳ hạn. Và anh tự đúc kết: “Ngoài đời lang bạt gió mưa- Hôn nhân mỏng mảnh ta thừa ngoài em”. Ở góc độ này, nói rằng Xuân Trường giống như một tín đồ của quan niệm thơ ca Hàn Mặc Tử- nhà thơ mà Xuân Trường hết sức trọng vọng, kính tín, thường lên đồi Thi Nhân thắp hương- quả cũng không ngoa: “Trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần” và “loài người”, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch”.

Trong số kiếp của “loài thi sĩ”, xế chiều nhìn lại, Xuân Trường thao thiết: “Hết rồi chen lấn người ta- Bao nhiêu nước chảy đã qua kiếp người”; “Bánh xe quay tít thơ sầu- Tiếng con bìm bịp bắt đầu gom sương”…  Những ký tự đắm đuối của người phiêu lãng, nông sâu gửi theo non nước, cùng gió thổi mây bay, như những sợi vô thường. Tôi chưa nói hết những gì cần nói, chỉ cơ hồ chạm khẽ vào sợi tơ ấy, ngân rung cùng những nỗi niềm thơ Xuân Trường ấp ủ và tự bạch. Ở đó, tôi gặp lại một người quen biết cũ trong bóng dáng hư ảo và đượm đà: “Ly này tôi cạn trời xanh- Sóng xưa vỗ phía biên thành ngàn năm- Đắm hồn đáy nước xa xăm- Nắng nghiêng cổ tích lá răm mắt chiều”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm