TIN TỨC

Xuân Trường ly này tôi cạn trời xanh…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
621 lượt xem

NGUYỄN THANH MỪNG

Hồi Xuân Trường còn trên “phố núi cao phố núi mờ sương”, anh hay gửi tác phẩm cho Văn nghệ Bình Định và thỉnh thoảng ghé Quy Nhơn, đặc biệt là trong các dịp Nguyên Tiêu. Tôi lặng lẽ cảm mến một nhà thơ ít nói, nụ cười hiền ẩn chứa những trầm tích của thời gian, lúc như vô vi lúc thì kiêu bạc. Sự chân tình với bè bạn và với một tình yêu thơ ca vô bờ bến trong anh đã kết nối bước chân lãng du với những miền đất, những tâm hồn, không to tiếng cao giọng, chỉ rủ rỉ rù rì, mây trôi gió thoảng, nhưng khi kết nối lại thì không ít thấm thía, vang vọng.

Trong vật đổi sao dời, tình cảm bạn bè cũng như niềm say mê của nhà thơ ngày nào vẫn còn nguyên vẹn. Giữa cái mạch tiếp nối của truyền thống “Chùm thương nhớ” (1999), Tím xưa (2000), “Không gian em” (2005), “Nắng trầm tư” (2008), một hôm tôi gặp một Xuân Trường thi sĩ quen thuộc trong mới lạ, mới lạ trong quen thuộc. Cảm giác đó ùa về khi chàng thi sĩ đến định cư ở Sài Gòn, để lại sau lưng các thành phố miền Trung và cao nguyên với tuổi trẻ dãi dầu, xa cách nhiều năm, bỗng một hôm gửi tặng tôi tập thơ “Chiếc cằm nũng đôi” mới in chưa ráo mực.

Tôi chú ý đến một giọng điệu khói sương trong thơ Xuân Trường, nửa ở thực tại nửa ở hư ảo: “Con sông xưa vẫn lặng thầm- Đôi bờ hưng phế dịu đằm vào nhau”; “Dang tay vớt nửa câu thề- Bẻ đôi từ lúc ngõ về không em”; “Phố nghiêng mắt ướt hoa đèn- Lang thang ta nhặt hờn ghen một thời”; “Tiếng đàn tài tử chia hai- Nửa cầm chân khách nửa cài ngực tôi”… Thơ cũng như ca dao Việt Nam, có nhiều bài ẩn giấu một cốt truyện bên trong, ví như: “Nàng nói với ta nàng hãy còn son- Ta đi qua ngõ thấy con mình bò- Con mình những trấu cùng tro- Ta đi gánh nước tắm cho con mình”. Xuân Trường trong lục bát dài “Chiếc cằm nũng đôi” đã viết một thiên tình sử, pha chút bi hài trong giọng điệu trữ tình dùng dằng, khi có, khi không, khi mất, khi còn: “Thoáng gì trong mắt xa xăm- Câu thơ bối rối chiếc cằm nũng đôi”. Ở gương mặt mỹ nhân, đôi mắt lá răm, chiếc răng khểnh, lúm đồng tiền cũng thành “vực thẳm ái tình”, nó chôn giấu bao nhiêu bí ẩn mà thi sĩ của muôn đời đắm đuối, và con thuyền tình Xuân Trường đã rơi đúng “chiếc cằm nũng đôi”!

Cái gốc “đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm” của anh, trong bóng dáng người cha đã khuất: “Lưỡi cày rốc đất ruộng trưa- Dấu chân sót lại đồng xưa ướt nhòa”, có người mẹ hiền hy sinh tần tảo: “Với lời trăng bến gió sông- Bảy lăm năm ấy cô phòng một tiên”; có cả mối tình hoa niên: “Cắn tay em bảo xưa rồi- Thôi đừng nhắc nữa kẻo đời nôn na”… Xuân Trường đã gói theo hành trang xa xứ, nén chặt trong trái tim để mỗi lúc mềm lòng thì ngồi tư lự với những vần thơ sông dài biển rộng. Anh đi nhiều, hít thở thật sâu hương vị sẻ chia của cõi người nhất là những lúc giông tố của đời, với sự hồn nhiên của một lòng thơ chân chất và cả sự lịch lãm của con người hào hoa. Ký ức lịch sử văn hóa, đôi lúc đã đọng lại trong hơi thở ấy: “Ngàn năm mấy nỗi Đồ Bàn- Dấu chân huyền sử hoang tàn phế đô- Gió ngồi chẻ nắng hư vô- Cõi người cõi tháp lắng mờ trong nhau”. Trong cái cõi tháp ấy, một cơn say, anh đã gặp bóng dáng Huyền Trân: “Từ cõi ngàn thu ta trở lại- Dặn dò con cháu chút vậy thôi- Lòng vẫn cong theo hình Tổ quốc- Vòng tay hải đảo mấy nghìn đời”.

Trở lại Đà Nẵng, Pleiku, hay vào Nam Bộ, ra Bắc Hà, Xuân Trường vẫn giữ nguyên phong thái đa cảm đa mang cố hữu. Về Quy Nhơn đất cũ, anh tung mây bạt gió với bạn bè trong cốc rượu Bàu Đá, trên ngọn cỏ phiêu bồng xa xưa, cái ngọn cỏ mà nhà thơ lẫy lừng Hàn Mặc Tử đã: “Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng- Những sợi hào quang vạn thước vàng”. Một Quy Nhơn đa mang của Xuân Trường: “Em ngày xưa một câu gì- Cho tôi dại đến xuân thì đảo điên”. Một Đà Nẵng đa mang của Xuân Trường: “Đà Thành giờ thênh thang ghê- Chỉ riêng mưa bão không hề đổi thay”. Một Huế đa mang của Xuân Trường: “Tay em thưa nhặt sênh tiền- Áo khuya cợt gió lật viền bão giông”. Một Vĩnh Long đa mang của Xuân Trường: “Câu thơ gãy nửa nhịp rồi- Mà còn nghe gió cứ ngồi đếm hương”. Một Hà Nội: “Chiều mồ côi con gái phía Tây Hồ…”. Và một Thái Nguyên, một Đà Lạt, một Nha Trang, một Phan Thiết, một một Tây An, Kông chro…ở đâu Xuân Trường cũng giãi lòng ra trăng với nước với đất, với người, với thực tại và với mộng mơ, rót trong chén rượu lang bạt kỳ hồ, rót xuống môi người những nợ duyên không kỳ hạn. Và anh tự đúc kết: “Ngoài đời lang bạt gió mưa- Hôn nhân mỏng mảnh ta thừa ngoài em”. Ở góc độ này, nói rằng Xuân Trường giống như một tín đồ của quan niệm thơ ca Hàn Mặc Tử- nhà thơ mà Xuân Trường hết sức trọng vọng, kính tín, thường lên đồi Thi Nhân thắp hương- quả cũng không ngoa: “Trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần” và “loài người”, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch”.

Trong số kiếp của “loài thi sĩ”, xế chiều nhìn lại, Xuân Trường thao thiết: “Hết rồi chen lấn người ta- Bao nhiêu nước chảy đã qua kiếp người”; “Bánh xe quay tít thơ sầu- Tiếng con bìm bịp bắt đầu gom sương”…  Những ký tự đắm đuối của người phiêu lãng, nông sâu gửi theo non nước, cùng gió thổi mây bay, như những sợi vô thường. Tôi chưa nói hết những gì cần nói, chỉ cơ hồ chạm khẽ vào sợi tơ ấy, ngân rung cùng những nỗi niềm thơ Xuân Trường ấp ủ và tự bạch. Ở đó, tôi gặp lại một người quen biết cũ trong bóng dáng hư ảo và đượm đà: “Ly này tôi cạn trời xanh- Sóng xưa vỗ phía biên thành ngàn năm- Đắm hồn đáy nước xa xăm- Nắng nghiêng cổ tích lá răm mắt chiều”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trăng Lạnh” và một trái tim ấm áp
“Trăng lạnh”, tập thơ mới nhất của nhà thơ Trần Thế Tuyển đến với tôi như một một món quà tặng của người anh “đồng đội”, như một sự chia sẻ cảm xúc của người yêu văn thơ, để cùng ngân nga lọc tìm những câu thơ đẹp, để có những khoảnh khắc lắng đọng chiêm nghiệm nhân gian thế sự, để càng trân quý hơn cuộc sống, tình yêu và sự thanh bình…
Xem thêm
“Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại”
Nhà phê bình văn học là người có tâm hồn giao cảm mãnh liệt với từng lời văn, con chữ và những giai điệu du dương của thơ ca. Họ đã có những cảm nghiệm sâu sắc giữa thơ văn và đời mình. Với họ, mỗi tác phẩm văn học không chỉ là một tư tưởng cần được khám phá mà còn là một thế giới sống động, nơi những dòng chữ biết thủ thỉ cùng tâm hồn.
Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm