TIN TỨC

Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-03-14 08:18:25
mail facebook google pos stwis
1338 lượt xem

TRẦN QUANG KHÁNH

Tôi nghe tên ông đã lâu và đã đọc truyện của ông. Nhưng mãi đến lần dự Hội trại sáng tác Đà Lạt 2022 mới may mắn được gặp mặt và cũng chỉ hầu chuyện ông được vài ba lần. Những lần trò chuyện ngắn ngủi ấy cũng đã kịp để lại trong tôi sự trân trọng về một con người trí tuệ, chân thành, nhân ái!
 


Nhà văn, nhà thơ Hoàng Đình Quang và bìa tập thơ mới của ông.

Nhưng có thể nói để có sự thấm sâu, đóng đinh vào tâm trí tôi là khi được đọc “Thơ mười năm” của ông. Tập thơ được in ở NXB Hội Nhà văn, năm 2023.

Có được cuốn “Thơ mười năm” cũng là một điều bất ngờ hiếm thấy. Cuộc cướp thơ! Tôi gọi đó là cuộc cướp thơ, cướp thực sự với nghĩa đen của nó không chút cường điệu.

Chỉ khoảng mười phút giải lao giữa buổi ra mắt sách, Phó ban thơ nữ Trần Mai Hường khệ nệ bưng một thùng to vào chỗ ngồi của nhà thơ Hoàng Đình Quang và nói dịu dàng, dõng dạc: “Ông anh ơi sách của anh đây nè!”

Vừa dứt câu nói của Trần Mai Hường, tôi nghĩ rất nhanh đợi chút nữa mình đăng kí ở ông một cuốn. Nhưng ý nghĩ chưa dứt thì bỗng thấy các nhà văn, nhà thơ lao về phía ông. Người ta xé hộp bao và mỗi người cầm lấy một cuốn, miệng cười tươi nhìn ông.

Tôi phát hoảng, mình ngồi cạnh ông nếu cứ giữ cái lịch sự “tiểu tư sản” không "cướp” lấy một cuốn chắc trắng tay. Với cánh tay được đồng đội mệnh danh là tia chớp tôi cũng "cướp “nhưng còn kịp nói với ông một câu: em xin! Bỏ ngay vào túi xách tót xuống hàng dưới cùng hội trường chỉ sợ bị đòi lai.

   Ngước nhìn lên và thấy ông bắt đầu phát hoảng. Tôi nghĩ không khéo chủ nhân tập “Thơ mười năm” cũng trắng tay.

Ông ôm vội số còn lại chắc không còn một nửa đi gấp về phía cầu thang mất hút. Trưa hôm ấy có cỗ nhưng tôi tìm mãi không thấy ông.

 Tôi đọc tập thơ ngay mấy phút sau. Những mảnh tâm hồn của ông hiện lên sau những con chữ bình dị, sâu sắc, lôi cuốn.

Ông nói “Mười năm rồi ta sống những đâu đâu” tự trách mình, day dứt. Rồi ông giải bày:

         “Ta sống giữa hai khoảng đời ép chặt

            Ngẩn ngơ nhìn bốn phía vẫn vô tâm"

Tôi cứ nghĩ với con người này không thể vô tâm, con người có ký ức “Phiên chợ Tết cuối cùng" - truyện ngắn của ông - không thể là con người “vô tâm". Ông quan sát, ghi nhớ, gắn bó với quê hương xứ sở ngay từ tuổi ấu thơ khi đang sống trên quê hương sâu đậm, máu thịt như cây cắm vào đất!

 Tôi thấy ông cảm giác lẻ loi. Một sự cô độc của thi nhân chân chính!

1. “Thơ mười năm” nói nhiều về nỗi đau mất mát không thể bù đắp khi người vợ đã ra đi về cõi mây trắng. Thơ Việt Nam đã từng khóc vợ không chỉ ở thứ dân mà cả trí thức, quan lại, vua chúa và đã có những bài thơ, câu thơ thật rung động, nhưng viết được câu thơ thắt ruột như thế này thì có lẽ đến "Thơ mười năm” mới thấy

           “Không giữ được em rồi

            Cái bất lực của loài cát bụi"

Hóa ra ông nói lên nỗi đau, bất lực không của riêng ông. Đó là nỗi đau của số phận con người! Nỗi đau của những tâm hồn đẹp, trong sáng, thủy chung và bất lực! Ở đây câu thơ tỏa chất trí tuệ và nhân văn chói sáng.

Nhưng dù cố gắng thế nào thì rồi hiện thực thân phận của ông cũng đọng lại. Đọng lại một ngòi bút Hoàng Đình Quang rất khái quát và cũng rất cụ thể.

              “Sau cơn mưa chiều ta biết phải về đâu?

               Múc nước, nước trôi

               Cắm sào, sào đã bẻ

               Không giữ được em

               Thôi đành như thế

               Ta hỏi cơn mưa chỉ thấy những mịt mù"

                           (Đối thoại cơn mưa chiều)

Có những câu thơ đứt ruột của người cha sau những bữa cơm...

            “Lỡ tay mặn muối con ơi

             Trách chi cái vụng của người làm cha"

                           (Thơ cho con)

2. "Thơ mười năm” mở ra một không gian, thời gian rộng lớn qua những sự việc, sự vật tưởng như nhỏ bé. Đúng là giọt nước chứa đựng bầu trời.

              “Cây lúa nén mình qua mùa sinh nở

               Hạt thóc mang về chỉ toàn vị mồ hôi"

Câu thơ đầy trân trọng nhưng cũng đầy day dứt, yêu thương!

Nói với tri kỉ, hồng nhan - với khoảng mờ nhòe của đắm say và dự cảm chia ly, có gì hay hơn

              “Trước ta ai nhắp môi rồi

               Sau ta liệu có còn người nhắp chung"

                          (Uống rượu hai người)

Và chất thơ là ở đó, ở cái chông chênh của đắm say đoàn viên và chia ly! Của dang dở! Của đắng cay!

Có câu thơ nào hay như thế này không       

“Một tình, một bạn, một tôi"

 Một đầy, một cạn, một vơi

 Một người uống để ba người cùng say"

                      (Uống rượu ba người)

"Thơ mười năm” có một cái nhìn cuộc đời, thân phận người dân khái quát và sinh động

             “Sử xanh còn đến hôm nay

             Vua đi cày để dân cày làm dân”

Cô đọng, thâm thúy, yêu thương day dứt đến thế là cùng! Và tôi còn thấy cả cái nụ cười nhếch mép chua chát trào lộng của ông!

"Thơ mười năm” còn là tiếng đồng vọng về những năm tháng “Xẻ dọc Trường Sơn", những năm tháng không thể nào quên của tình yêu Tổ quốc, quê hương, đồng đội và những người dân trên bước đường hành quân chiến đấu.

Ông có mặt ở cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn ác liệt nhất. Tôi cũng là người lính nhưng thế hệ sau ông trong những năm tháng chiến đấu chống quân xâm lược ở hai đầu đất nước nên rất đồng cảm, thấu hiểu nỗi lòng của ông. Tôi kính phục, trân trọng những gì ông đã gửi gắm vào thơ

            “Những nén hương không chịu cháy bình thường

            Chỉ muốn rực lên thành ngọn lửa

            Như ngày nào ánh sáng ở tiền phương”

                                (Mẹ Trường Sơn)

Đúng là ngọn lửa, là ánh sáng lương tri rọi sáng đến hôm nay và mai sau! Ông hy vọng, tôi cũng vậy! Và có lẽ không ít người cũng vậy!

Tôi muốn kết lại cảm nhận của mình khi đọc “Thơ mười năm” với hai câu thơ của ông mà ai viết nên được như vậy trong đời cầm bút cũng rất đáng tự

 hào:

          “Sau vũ hội mọi nhân tình đi hết

           Mảnh kim tuyến cuối cùng cũng theo gió bay đi”

                           (Bài ca lưu ly)

Đây đâu chỉ là tiếng thở dài, thất vọng! Trong đó còn là một cầu mong, hy vọng! Mảnh kim tuyến bay đi nhưng để lại, đóng đinh trong chúng ta một nỗi day dứt và cũng dự cảm một điều gì đó mới mẻ đang hình thành để mảnh kim tuyến ấy, mùa lễ hội ấy không bay theo gió.

                        TPHCM, ngày 13/3/2024.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm