TIN TỨC

Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-03-14 08:18:25
mail facebook google pos stwis
1243 lượt xem

TRẦN QUANG KHÁNH

Tôi nghe tên ông đã lâu và đã đọc truyện của ông. Nhưng mãi đến lần dự Hội trại sáng tác Đà Lạt 2022 mới may mắn được gặp mặt và cũng chỉ hầu chuyện ông được vài ba lần. Những lần trò chuyện ngắn ngủi ấy cũng đã kịp để lại trong tôi sự trân trọng về một con người trí tuệ, chân thành, nhân ái!
 


Nhà văn, nhà thơ Hoàng Đình Quang và bìa tập thơ mới của ông.

Nhưng có thể nói để có sự thấm sâu, đóng đinh vào tâm trí tôi là khi được đọc “Thơ mười năm” của ông. Tập thơ được in ở NXB Hội Nhà văn, năm 2023.

Có được cuốn “Thơ mười năm” cũng là một điều bất ngờ hiếm thấy. Cuộc cướp thơ! Tôi gọi đó là cuộc cướp thơ, cướp thực sự với nghĩa đen của nó không chút cường điệu.

Chỉ khoảng mười phút giải lao giữa buổi ra mắt sách, Phó ban thơ nữ Trần Mai Hường khệ nệ bưng một thùng to vào chỗ ngồi của nhà thơ Hoàng Đình Quang và nói dịu dàng, dõng dạc: “Ông anh ơi sách của anh đây nè!”

Vừa dứt câu nói của Trần Mai Hường, tôi nghĩ rất nhanh đợi chút nữa mình đăng kí ở ông một cuốn. Nhưng ý nghĩ chưa dứt thì bỗng thấy các nhà văn, nhà thơ lao về phía ông. Người ta xé hộp bao và mỗi người cầm lấy một cuốn, miệng cười tươi nhìn ông.

Tôi phát hoảng, mình ngồi cạnh ông nếu cứ giữ cái lịch sự “tiểu tư sản” không "cướp” lấy một cuốn chắc trắng tay. Với cánh tay được đồng đội mệnh danh là tia chớp tôi cũng "cướp “nhưng còn kịp nói với ông một câu: em xin! Bỏ ngay vào túi xách tót xuống hàng dưới cùng hội trường chỉ sợ bị đòi lai.

   Ngước nhìn lên và thấy ông bắt đầu phát hoảng. Tôi nghĩ không khéo chủ nhân tập “Thơ mười năm” cũng trắng tay.

Ông ôm vội số còn lại chắc không còn một nửa đi gấp về phía cầu thang mất hút. Trưa hôm ấy có cỗ nhưng tôi tìm mãi không thấy ông.

 Tôi đọc tập thơ ngay mấy phút sau. Những mảnh tâm hồn của ông hiện lên sau những con chữ bình dị, sâu sắc, lôi cuốn.

Ông nói “Mười năm rồi ta sống những đâu đâu” tự trách mình, day dứt. Rồi ông giải bày:

         “Ta sống giữa hai khoảng đời ép chặt

            Ngẩn ngơ nhìn bốn phía vẫn vô tâm"

Tôi cứ nghĩ với con người này không thể vô tâm, con người có ký ức “Phiên chợ Tết cuối cùng" - truyện ngắn của ông - không thể là con người “vô tâm". Ông quan sát, ghi nhớ, gắn bó với quê hương xứ sở ngay từ tuổi ấu thơ khi đang sống trên quê hương sâu đậm, máu thịt như cây cắm vào đất!

 Tôi thấy ông cảm giác lẻ loi. Một sự cô độc của thi nhân chân chính!

1. “Thơ mười năm” nói nhiều về nỗi đau mất mát không thể bù đắp khi người vợ đã ra đi về cõi mây trắng. Thơ Việt Nam đã từng khóc vợ không chỉ ở thứ dân mà cả trí thức, quan lại, vua chúa và đã có những bài thơ, câu thơ thật rung động, nhưng viết được câu thơ thắt ruột như thế này thì có lẽ đến "Thơ mười năm” mới thấy

           “Không giữ được em rồi

            Cái bất lực của loài cát bụi"

Hóa ra ông nói lên nỗi đau, bất lực không của riêng ông. Đó là nỗi đau của số phận con người! Nỗi đau của những tâm hồn đẹp, trong sáng, thủy chung và bất lực! Ở đây câu thơ tỏa chất trí tuệ và nhân văn chói sáng.

Nhưng dù cố gắng thế nào thì rồi hiện thực thân phận của ông cũng đọng lại. Đọng lại một ngòi bút Hoàng Đình Quang rất khái quát và cũng rất cụ thể.

              “Sau cơn mưa chiều ta biết phải về đâu?

               Múc nước, nước trôi

               Cắm sào, sào đã bẻ

               Không giữ được em

               Thôi đành như thế

               Ta hỏi cơn mưa chỉ thấy những mịt mù"

                           (Đối thoại cơn mưa chiều)

Có những câu thơ đứt ruột của người cha sau những bữa cơm...

            “Lỡ tay mặn muối con ơi

             Trách chi cái vụng của người làm cha"

                           (Thơ cho con)

2. "Thơ mười năm” mở ra một không gian, thời gian rộng lớn qua những sự việc, sự vật tưởng như nhỏ bé. Đúng là giọt nước chứa đựng bầu trời.

              “Cây lúa nén mình qua mùa sinh nở

               Hạt thóc mang về chỉ toàn vị mồ hôi"

Câu thơ đầy trân trọng nhưng cũng đầy day dứt, yêu thương!

Nói với tri kỉ, hồng nhan - với khoảng mờ nhòe của đắm say và dự cảm chia ly, có gì hay hơn

              “Trước ta ai nhắp môi rồi

               Sau ta liệu có còn người nhắp chung"

                          (Uống rượu hai người)

Và chất thơ là ở đó, ở cái chông chênh của đắm say đoàn viên và chia ly! Của dang dở! Của đắng cay!

Có câu thơ nào hay như thế này không       

“Một tình, một bạn, một tôi"

 Một đầy, một cạn, một vơi

 Một người uống để ba người cùng say"

                      (Uống rượu ba người)

"Thơ mười năm” có một cái nhìn cuộc đời, thân phận người dân khái quát và sinh động

             “Sử xanh còn đến hôm nay

             Vua đi cày để dân cày làm dân”

Cô đọng, thâm thúy, yêu thương day dứt đến thế là cùng! Và tôi còn thấy cả cái nụ cười nhếch mép chua chát trào lộng của ông!

"Thơ mười năm” còn là tiếng đồng vọng về những năm tháng “Xẻ dọc Trường Sơn", những năm tháng không thể nào quên của tình yêu Tổ quốc, quê hương, đồng đội và những người dân trên bước đường hành quân chiến đấu.

Ông có mặt ở cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn ác liệt nhất. Tôi cũng là người lính nhưng thế hệ sau ông trong những năm tháng chiến đấu chống quân xâm lược ở hai đầu đất nước nên rất đồng cảm, thấu hiểu nỗi lòng của ông. Tôi kính phục, trân trọng những gì ông đã gửi gắm vào thơ

            “Những nén hương không chịu cháy bình thường

            Chỉ muốn rực lên thành ngọn lửa

            Như ngày nào ánh sáng ở tiền phương”

                                (Mẹ Trường Sơn)

Đúng là ngọn lửa, là ánh sáng lương tri rọi sáng đến hôm nay và mai sau! Ông hy vọng, tôi cũng vậy! Và có lẽ không ít người cũng vậy!

Tôi muốn kết lại cảm nhận của mình khi đọc “Thơ mười năm” với hai câu thơ của ông mà ai viết nên được như vậy trong đời cầm bút cũng rất đáng tự

 hào:

          “Sau vũ hội mọi nhân tình đi hết

           Mảnh kim tuyến cuối cùng cũng theo gió bay đi”

                           (Bài ca lưu ly)

Đây đâu chỉ là tiếng thở dài, thất vọng! Trong đó còn là một cầu mong, hy vọng! Mảnh kim tuyến bay đi nhưng để lại, đóng đinh trong chúng ta một nỗi day dứt và cũng dự cảm một điều gì đó mới mẻ đang hình thành để mảnh kim tuyến ấy, mùa lễ hội ấy không bay theo gió.

                        TPHCM, ngày 13/3/2024.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm