TIN TỨC

Dòng kinh yêu thương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-01-23 15:30:57
mail facebook google pos stwis
1330 lượt xem

Lê Trúc Khanh

  Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ.

Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.

Lê Trúc Khanh và Nguyễn Thanh - từ trái qua 

 

Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No

Đêm chưa tỉnh giấc nồng

Cỏ cây ngậm nước mắt

Tôi đưa em sang sông

Xuôi thuyền về xứ Bạc

Đây dòng kinh Xà No

Nước phù sa đục lờ

Nhưng tình yêu trong trắng

Như vạn cánh tình thơ.

 

Lục bình trôi man mác

Mây trời cao lang thang

Lòng thi nhân dào dạt

Chim tình yêu kêu thương

 

Tháng năm dài thương nhớ

Xa cách nặng linh hồn

Tao phùng chưa mấy chốc

Ly biệt đếm phiên buồn

 

Nhìn nhau mà không nói

Lệ nghẹn chẳng khơi dòng

Còi hồi ba giục giã

Chân bước lại ngập ngừng

 

Thôi em về đi nhé

Mai mốt sẽ sum vầy

Cách xa thêm thắm thiết

Ngày gặp gỡ sau nầy

 

Khổ đau gì cũng qua

Sướng vui rồi cũng hết

Miễn tình nghĩa đôi ta

Mãi ngàn năm bất diệt.

Đất Vị, 24/8/1969

Ngũ Lang

 Bài thơ viết trong những năm tháng quê hương chìm trong đau thương, máu và nước mắt. Trong thời điểm nầy, địa danh Vị Thanh (Chương Thiện) là ám ảnh với thế hệ trẻ miền Nam trên đường ra chiến trận. Dù muốn dù không, chúng tôi theo lứa tuổi đều phải trình diện nhập ngũ để rồi cuối cùng nối gót nhau bước vào chiến địa. Chính vì thế, bài thơ của Ngũ Lang nhận được sự đồng cảm của bạn bè văn nghệ khắp nơi.

 Bài thơ này, chúng tôi đã diễn ngâm nhiều lần trong chương trình phát thanh hằng tuần trên Đài phát thanh Cần Thơ. Anh đã diễn đạt thật xúc động tâm trạng của thế hệ chúng tôi, tâm trạng của những người trẻ vừa rời khỏi ghế nhà trường, lại sớm bước vào con đường sinh tử, chưa định hướng được ngày mai.

 Những năm chiến tranh, cứ mỗi lần đọc lại khổ thơ “Đây dòng kinh Xà No/ Nước phù sa đục lờ/ Nhưng tình yêu trong trắng/ Như vạn cánh tình thơ.”, tôi liên tưởng hình ảnh một nhà giáo trẻ, phải rời bỏ mái trường, mái hiên lớp, bỏ lại cuộc sống phố thị để dấn bước vào cuộc sống khác đầy bất trắc. Tâm trạng đó cũng oằn nặng nỗi lo âu khi tiếng súng cầm canh dội về thành phố, khi “vạn cánh tình thơ” sẽ bị lấp vùi trong cát bụi và biết đâu “không chết người trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương”?

  Một tình yêu sáng trong như khung trời quê hương thơ ấu, yên ả như những cánh lục bình trên dòng kinh Xáng, biết có còn vẹn giữ trong cái vô thường phi lý của cuộc chiến đang mùa cao điểm? Nỗi băn khoăn của nhà thơ trong giờ khắc chia tay để rồi lại mong ước “Cách xa thêm thắm thiết/ Ngày gặp gỡ sau này”… cũng là tâm trạng chung của một thế hệ thanh niên  thời ly loạn. Trong thời điểm nầy, phương tiện truyền thông còn vô cùng hạn chế. Bạn bè văn nghệ chúng tôi chỉ liên lạc tin tức từ những bức thư qua đường bưu điện. Niềm vui của những người ở lại khi mỗi tuần một lần, gặp nhau lúc thu chương trình thơ ở Đài phát thanh Cần Thơ là chia nhau đọc thư bằng hữu. Cũng có khi vừa nhận thư kèm theo mấy bài viết mới gởi về từ chiến trận, thì hay tin tác giả cũng đã vĩnh viễn ra đi.

 Nỗi ám ảnh không rời giữa sự sống và cái chết, giữa nỗi khao khát thanh bình trong chiến tranh đạn bom tàn khốc, đã làm cho bạn bè văn nghệ Cần Thơ càng quí hơn với bao ý tình trong bài thơ thấm đẫm chất nhân văn của tác giả Ngũ Lang. Với riêng tôi, nếu được phép giữ vai trò đánh giá, thì bài thơ Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No là sáng tác xuất sắc nhất trong số những tác phẩm của anh.

 Nhà giáo Nguyễn Thanh - Ngũ Lang - một người bạn văn nghệ thân quen gần 60 năm. Nhưng từ sau 1975, bản thân tôi gần như giã từ vũ khí (!), ít tham dự vào trường văn trận bút, mà chủ yếu là gắn với với nghề dạy học, họa hoằn là có một vài sáng tác trên các đặc san, kỷ yếu của trường tôi. Nhưng mỗi lần nhắc tới anh, tôi không thể nào quên bài thơ “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No”, bởi đó là ấn tượng sâu sắc nhất về cảm xúc chân thành không chỉ của riêng anh.

Với cái nhìn mang tính chủ quan, tôi cho rằng nhà thơ, nhà văn trong quá trình sáng tác có thể cho ra đời hàng trăm, hàng ngàn tác phẩm, nhưng người đọc chỉ cần nhớ đến họ một vài câu thơ, một tựa đề… thì đó đã là hạnh phúc. Chẳng hạn khi đọc hai câu “Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở/ Đời mất vui khi đã vẹn câu thề” là ta nhớ ngay tới nhà thơ Hồ Dzếnh, hoặc câu thơ “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/ Nghìn năm chưa dễ mấy ai quên” , là nét tài hoa mà Thế Lữ gởi lại cho đời. Gần hơn, với những người làm văn nghệ phương Nam, chỉ cần nghe bốn từ “Hương rừng Cà Mau” là ta nhớ đến Sơn Nam, hay khi nhắc “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” là nhớ Kiên Giang – Hà Huy Hà. Tất cả, đã là cát bụi trong “lẽ sắc – không” của kiếp phù sinh. Chính vì thế, nhắc đến nhà thơ Ngũ Lang của thập niên 60 thế kỷ trước, tôi chỉ muốn nói về bài thơ của anh. Tôi cũng đã có dịp đọc được nhiều bài viết mà anh dự kiến đưa vào tuyển tập và thật sự “choáng ngợp” với những tư liệu về anh. Nguyễn Thanh – Ngũ Lang, đúng là một tài năng thiên phú. Anh là một học sinh xuất sắc, một thầy giáo giỏi, một võ sư, một người nghệ sĩ đa tài: thơ, văn, kịch, truyện ,nhạc, họa… Biết bao nhiêu mỹ từ mà bằng hữu văn nghệ, học trò đã dành cho anh: “Nguyễn Thanh – Người nghệ sĩ tài hoa kiến văn quảng bác, bút lực sung mãn” (Lê Hà Uyên); “Nguyễn Thanh- Viên kim cương ẩn mình luôn tỏa sáng” (Thạch Sene). Hoặc một học trò cũ đã hết lời khen tặng anh: “Thầy Nguyễn Thanh (Nguyễn Tấn Thành) thực sự xứng đáng là biểu tượng cho một người thầy chân chính của những người thầy, một nghệ sĩ đích thực của những nghệ sĩ” (Th.S Hồ Thị Ánh Dương),…

Tôi không muốn nói về anh với những ngôn từ sáo rỗng, vì muốn giữ trong lòng mình hình ảnh một người làm văn nghệ nhiệt tình, sôi nổi, một tâm hồn dạt dào mơ ước, một khát vọng thanh bình… mà tôi đã may mắn hội ngộ trên dòng đời từ hơn 50 năm trước.

 Xin một phút lắng lòng để liên tưởng hình ảnh chàng trai còn chưa đậm nét phong sương vì chưa bước vào chiến trận, hoá thân cho bao nhiêu người bạn trong một sớm mai đưa người yêu “sang sông/ Xuôi thuyền về xứ Bạc”. Và có phải chăng, tự bao giờ cho đến bây giờ, dòng kinh thân ái kia vẫn còn chảy hoài trong trái tim người nghệ sĩ?…

                                                         Cần Thơ, tháng 8/1/2023

                                                                                                 L.T.K

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bài thơ ANH QUÊN của nhà thơ Phạm Đình Phú
Bài của nhà thơ Nguyễn Đình Sinh
Xem thêm
Dưới gầm trời lưu lạc – Bản ngã nhà báo trong vỏ bọc nhà văn
“Dưới gầm trời lưu lạc” không chỉ là tựa đề một tập sách bút ký xuất sắc của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng, mà còn là một hành trình tinh thần đầy trăn trở giữa lằn ranh của báo chí và văn chương.
Xem thêm
Người thơ mang áo blouse
Bài của Đại tá nhà văn Nguyễn Minh Ngọc
Xem thêm
Xuân Trường mưa mai trong nắng chiều
Bài viết của nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng
Xem thêm
Nụ hôn – biểu tượng của ký ức và lòng nhân hậu
Qua lăng kính bình thơ của hai nữ nhà thơ Minh Hạnh và Nguyễn Thị Phương Nam, người đọc có thể cảm nhận được những “nụ hôn” mang hình dáng đất nước
Xem thêm
Văn chương và những ngộ nhận đáng buồn
Tôi đã đọc một số bài thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từ những năm trước, nó như có tính “dự báo”, “dọn đường” cho trường ca “Lò mổ” ra đời tạo được tiếng vang. Và thi ca với sứ mệnh thiêng liêng của nó, qua trường ca “Lò Mổ” cũng sẽ vượt qua biên giới của lý trí để tới với bạn bè năm châu bốn biển.
Xem thêm
Vai trò của chúa Trịnh với thương cảng Phố Hiến
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, địa danh Phố Hiến vừa thân thương vừa thân thuộc trong trí nhớ mọi người. Phố Hiến từng là một thương cảng lớn sầm uất và quan trọng bậc nhất của xứ Đàng ngoài (miền Bắc Việt Nam).
Xem thêm
Những nụ hôn chữa lành
Đọc tập thơ Ấm lòng những nụ hôn như thế của Phạm Đình Phú
Xem thêm
Trở lại cánh đồng thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh
Nhà thơ Y Phương ở miền non nước Cao Bằng đã từng tâm niệm: “Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ“. Quả thực, thơ ca thực sự là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, là hạt minh châu trong biển hạt trai, là tinh hoa trong vườn phương thảo.
Xem thêm
“Những nụ hôn như thế” – từ ngọn lửa yêu thương đến ngọn nguồn hy sinh
Cảm nhận về bài thơ cùng tên trong tập thơ của Phạm Đình Phú – Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM
Xem thêm
Bước đầu tìm hiểu 50 năm thơ Bình Định (1975-2025)
Bình Định – vùng “Đất võ trời văn” – không chỉ nổi tiếng với truyền thống thượng võ, mà còn là mảnh đất đã sản sinh và nuôi dưỡng nhiều thế hệ thi sĩ tài hoa.
Xem thêm
Sự hồi quang ký ức trong “Bài thơ cánh võng”
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang
Xem thêm
Văn học Bình Dương – 50 năm một hành trình lặng lẽ và bền bỉ
Bài viết công phu của tác giả Nguyễn Quế không chỉ khắc họa hành trình văn học của vùng đất Thủ suốt 50 năm qua...
Xem thêm
5 sắc thái của một giọng thơ lạ trong “Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau”
Bài viết của Lương Cẩm Quyên sẽ đưa bạn đọc khám phá một hồn thơ đầy bản lĩnh, dám giễu đời...
Xem thêm
Thời đương đại nghe lời thơ lục bát ru tình
Bài viết của Tiến sĩ Hà Thanh Vân
Xem thêm
“Nghiêng về phía nỗi đau” - Từ góc nhìn lý thuyết chấn thương
Nguồn: Tạp chí Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Mặc khải của nước, lửa &…
Bài của nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế
Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm