TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Dòng sông thơ ấu” như là dòng chảy cuộc đời của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

“Dòng sông thơ ấu” như là dòng chảy cuộc đời của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-07 17:59:30
mail facebook google pos stwis
2479 lượt xem

HÀ THANH VÂN

(Tham luận đọc tại Hội thảo “Nhà văn Nguyễn Quang Sáng – Cuộc đời và sự nghiệp”)

Nguyễn Quang Sáng (12/1/1932 – 13/2/2014), còn có bút danh là Nguyễn Sáng, là một nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam hiện đại, sinh ra tại xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông dấn thân vào sự nghiệp văn chương và gặt hái nhiều thành công trong giai đoạn đất nước trải qua nhiều biến động, từ thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ đến thời kỳ đổi mới. Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về văn học nghệ thuật được trao cho Nguyễn Quang Sáng vào năm 2001 là sự ghi nhận cao nhất cho những đóng góp của ông vào nền văn học Việt Nam hiện đại.


TS Hà Thanh Vân phát biểu tham luận tại Hội thảo, sáng 6/12/2024.

 

Một tuổi trẻ sôi nổi với kháng chiến và văn chương

Nguyễn Quang Sáng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và bắt đầu sáng tác từ những năm 1950. Ban đầu, ông chủ yếu viết các truyện ngắn về cuộc sống và chiến đấu ở miền Nam. Nguyễn Quang Sáng phản ánh lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu của nhân dân Nam Bộ thông qua những câu chuyện giản dị nhưng xúc động, đặc biệt là trong các truyện ngắn của ông. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở thập niên 1960 – 1970, Nguyễn Quang Sáng chuyển sang viết văn xuôi, tập trung khai thác hiện thực chiến tranh và đời sống người dân Nam Bộ. Tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này là “Chiếc lược ngà”, một truyện ngắn cảm động về tình cha con giữa khói lửa chiến tranh. Thời kỳ này, Nguyễn Quang Sáng ghi dấu ấn mạnh mẽ với những tác phẩm mang đậm chất nhân văn, phản ánh cuộc sống chiến tranh khốc liệt nhưng tràn đầy tình người. “Chiếc lược ngà” là minh chứng cho khả năng khai thác chiều sâu tâm lý nhân vật trong hoàn cảnh chiến tranh. Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, Nguyễn Quang Sáng tiếp tục sáng tác về cuộc sống thời hậu chiến, các mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ xây dựng và đổi mới đất nước. Ông chuyển sang phản ánh những thay đổi xã hội, khai thác các vấn đề xã hội, đạo đức và con người.

Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Quang Sáng là “Con chim vàng” (tập truyện ngắn, 1956), “Người quê hương” (tập truyện ngắn, 1968), “Nhật ký người ở lại” (tiểu thuyết, 1961), “Đất lửa” (tiểu thuyết, 1963), “Câu chuyện bên trận địa pháo” (truyện vừa, 1966), “Chiếc lược ngà” (tập truyện ngắn, 1966), “Bông cẩm thạch” (tập truyện ngắn, 1969), “Cái áo thằng hình rơm” (truyện vừa, 1975), “Mùa gió chướng” (tiểu thuyết, 1975), “Người con đi xa” (tập truyện ngắn, 1977), “Dòng sông thơ ấu” (tiểu thuyết, 1985), “Bàn thờ tổ của một cô đào” (tập truyện ngắn, 1985), “Tôi thích làm vua” (tập truyện ngắn, 1988), “25 truyện ngắn” (1990), “Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn” (1990), “Con mèo của Foujita” (tập truyện ngắn, 1991), “Nhà văn về làng” (tập truyện ngắn, 2008).

Nguyễn Quang Sáng còn là nhà biên kịch phim xuất sắc, với các tác phẩm kinh điển như bộ phim “Cánh đồng hoang”, được tặng Huy chương vàng liên hoan phim toàn quốc (1980), Huy chương vàng liên hoan phim quốc tế ở Moskva (1981); “Mùa gió chướng đoạt Huy chương bạc liên hoan phim toàn quốc (1980). Ông cũng là tác giả kịch bản của nhiều bộ phim khác như “Pho tượng” (1981), “Cho đến bao giờ” (1982), “Mùa nước nổi” (1986), “Dòng sông hát” (1988), “Câu nói dối đầu tiên” (1988), “Thời thơ ấu” (1995), “Giữa dòng” (1995), “Như một huyền thoại” (1995).

Nguyễn Quang Sáng được xem là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học cách mạng Việt Nam. Với phong cách viết mộc mạc, giản dị nhưng giàu cảm xúc, ông khắc họa thành công cuộc sống và tâm hồn con người miền Nam trong các thời kỳ chiến tranh và hòa bình. Nguyễn Quang Sáng nổi bật với khả năng khai thác các khía cạnh đời thường trong những hoàn cảnh đặc biệt. Các tác phẩm của ông không chỉ là câu chuyện cá nhân mà còn là câu chuyện chung của dân tộc, phản ánh trung thực và sâu sắc sự chuyển mình của đất nước. Ông có đóng góp lớn cho thể loại văn xuôi và dòng văn học chiến tranh.


TS Hà Thanh Vân (đeo kính) tại buổi hội thảo “Nhà văn Nguyễn Quang Sáng – Cuộc đời và sự nghiệp” - Ảnh Trần Quang Khánh.


“Dòng sông thơ ấu” là hoài niệm và cũng là dòng đời tuổi thơ của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

“Dòng sông thơ ấu” là một trong những tác phẩm nổi bật của Nguyễn Quang Sáng, được xuất bản vào năm 1985. Đây là câu chuyện về tuổi thơ của nhân vật lấy cảm hứng từ chính tuổi thơ của nhà văn và những người bạn ở một vùng quê Nam Bộ, với dòng sông gắn liền cuộc sống của họ. “Dòng sông thơ ấu” có nguyên mẫu là dòng sông Tiền chảy qua làng Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, An Giang, quê hương của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Dòng sông dưới ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng cũng trở thành một dạng nhân vật, như lời ông Hai Thợ Bạc, một nhân vật trong tác phẩm hay triết lý: “Nỗi nhớ của con người có lúc nó nằm yên rồi chợt gặp một dáng đi, giọng nói của ai đó, hoặc gặp một bài hát mà nó hay hát, nỗi nhớ lại dâng lên cuồn cuộn như sóng. Và kỷ niệm như những con thuyền trăn trở không yên. Nỗi nhớ như con sông vẫn chảy mãi trong đời người”. Năm 1995, tác phẩm “Dòng sông thơ ấu” được dựng thành phim với tên gọi “Thời thơ ấu” do chính nhà văn Nguyễn Quang Sang chuyển thể thành kịch bản phim, với sự tham gia của các diễn viên như Thành Lộc, Quyền Linh, Mỹ Hạnh, Mạc Can...

Tác phẩm “Dòng sông thơ ấu” xoay quanh hồi ức tuổi thơ hồn nhiên nhưng cũng đầy khó khăn của nhân vật trong bối cảnh Nam Bộ trước năm 1945 với điểm nhấn là những ngày hào hùng đầy chất sử thi của tháng 8/1945, nhưng tiểu thuyết in dấu trong lòng người đọc lại là nét văn hóa đặc trưng sông nước của miền Tây, với những con người hồn hậu, nghĩa tình. Qua dòng sông, nhà văn gợi lên hình ảnh quê hương yên bình nhưng cũng đầy biến động của những năm tháng đã qua, phản ánh mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, con người và xã hội đặt trong một bối cảnh lịch sử đặc thù

“Dòng sông thơ ấu” phản ánh bức tranh tuổi thơ miền Tây Nam Bộ. Đó là một câu chuyện về tuổi thơ không chỉ của riêng nhân vật mang tên “Năm” theo thứ bậc của người miền Tây Nam Bộ trong gia đình, mà còn là tuổi thơ chung của cả một thế hệ sống giữa khói lửa chiến tranh, trong sự đan xen giữa cái hồn nhiên và cái khắc nghiệt của cuộc đời. Dòng sông trong tác phẩm không chỉ là một không gian địa lý mà còn là biểu tượng của ký ức, của sự trưởng thành và những mất mát khó quên.

Nguyễn Quang Sáng khắc họa tuổi thơ của nhân vật chính là cậu bé Năm cùng nhóm bạn qua những trò chơi nghịch ngợm, những mẩu chuyện đời thường giản dị nhưng mang tính biểu tượng sâu sắc. Từ những trò nghịch phá của cậu bé Năm và bạn bè, cho đến những cú va chạm đầu đời với hiện thực nghiệt ngã, tác phẩm vẽ nên một bức tranh sinh động về tuổi thơ miền quê Tây Nam Bộ: vừa dung dị, thơ mộng, vừa ám ảnh bởi bóng đen của chiến tranh thế giới thứ hai và mùa thu cách mạng, kháng chiến 1945, cùng với những nét văn hóa, tôn giáo đặc trưng của mảnh đất An Giang với những nhân vật lịch sử của đạo Hòa Hảo có thật đan xen, khiến cho tác phẩm “Dòng sông thơ ấu” phảng phất bóng dáng của tự truyện.

 

“Dòng sông thơ ấu” như là nhân chứng của ký ức lịch sử

Dòng sông trong tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng hiện diện như một “nhân vật” đặc biệt, chứng kiến sự lớn lên, trưởng thành của các nhân vật, sự đổi thay của quê hương và xã hội. Qua dòng sông, Nguyễn Quang Sáng kể lại những kỷ niệm hồn nhiên, những giấc mơ dang dở và cả những nỗi đau mất mát. Nó không chỉ là không gian sinh hoạt của tuổi thơ, của sự sôi động miền quê sông nước, mà còn là nơi lưu giữ những rung động đầu đời, những bài học đầu tiên về cuộc sống. Nhân vật cô gái Chi (hay còn gọi là Trâm) là hình ảnh đẹp lưu giữ trong ký ức tác giả và gây rung cảm sâu sắc với độc giả về một người phụ nữ lặng lẽ không lập gia đình, chờ đợi người yêu đi kháng chiến cho đến khi mái tóc đã pha sương và chàng trai ấy đã hy sinh, chưa kịp một lần gặp lại.

Tác phẩm “Dòng sông thơ ấu” không chỉ dừng lại ở tuổi thơ mà còn gợi lên bức tranh lớn hơn về xã hội miền Tây Nam Bộ thời kỳ trước năm 1945 và vắt ngang qua bằng những mảnh ký ức của những năm tháng sau này. Đó là xã hội mà những mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa kháng chiến và thực dân, giữa lòng yêu nước và sự cơ hội chính trị bắt đầu lộ rõ. Dòng sông không còn là chốn bình yên của tuổi thơ mà dần mang theo cả những dòng chảy của biến cố và thay đổi của lịch sử. Đó là câu chuyện treo cờ đỏ búa liềm ở Cột Dây Thép hay về nhà cách mạng Châu Văn Liêm, về giáo chủ đạo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, về đạo Cao Đài… Dù không miêu tả trực diện, chiến tranh thế giới thứ hai và bối cảnh đất nước Việt Nam thời đó vẫn hiện lên qua những câu chuyện nhỏ, những biến cố xảy ra quanh cuộc sống của cậu bé Năm.

Ở một tầng mức ý nghĩa sâu hơn, “Dòng sông thơ ấu” là một lời tri ân đối với quê hương miền Tây Nam Bộ, cụ thể là mảnh đất An Giang đã nuôi dưỡng tâm hồn và ký ức của nhà văn. Nguyễn Quang Sáng không chỉ tái hiện vẻ đẹp của vùng đất này mà còn gợi lên một khát vọng hòa bình và những ước vọng nhân văn, cũng như quyết tâm mở lòng ra với đất nước, với kháng chiến, như lời khẳng định của cậu bé Năm, nhân vật chính trong tác phẩm: “Lâu nay, mọi người như đi trên con sông, tôi thấy bạn bè và thiên hạ, ai ai cũng có một chỗ trên chiếc thuyền của mình, còn tôi, cứ phải lặn hụp, ngoi ngóp trên mặt sông. Đêm ấy, tôi như thấy được bóng dáng chiếc thuyền của mình, tôi sẽ bơi tới.”

 

“Dòng sông thơ ấu” và chất miền Tây Nam Bộ đậm đặc

Nguyễn Quang Sáng sử dụng giọng văn mộc mạc, gần gũi, mang đậm phong vị Nam Bộ. Từ cách xây dựng lời thoại đến cách miêu tả thiên nhiên, con người, ông đưa người đọc hòa mình vào không gian miền quê thân thuộc, cảm nhận được cả mùi bùn, mùi nước sông, ở đó có những con người miền Tây khẳng khái, nhân hậu, nghĩa tình. Ngôn ngữ của Nguyễn Quang Sáng đầy chất thơ, giàu hình ảnh nhưng không hề xa rời thực tế. Ông sử dụng những câu chữ giản dị nhưng giàu sức gợi, làm bật lên vẻ đẹp tự nhiên của dòng sông, làng quê và cả những cảm xúc tinh tế của nhân vật. “Từng mảng đất từ trên bờ đổ ùm xuống, bọt nước tung trắng xóa. Bờ sông hõm vô với màu đất đỏ. Và dòng sông như giận ai, từ nơi xa khơi, ở giữa dòng, nổi lên từng đợt sóng bạc đầu, gầm thét đuổi xô nhau đập vào bờ. Và xa kia, ở làng tôi, mây khói đen như kéo cả bầu trời hạ xuống, trên đầu của con sông. Ôi! Dòng sông thơ ấu của tôi chiều hôm ấy sao mà buồn thế!”

Cảnh sắc miền quê Tây Nam Bộ được Nguyễn Quang Sáng tái hiện như một bức tranh chân phương, mộc mạc, nhưng nhiều màu sắc. Dòng sông không chỉ là một không gian địa lý mà còn là một nhân tố tham gia vào dòng cảm xúc, ký ức và sự trưởng thành của nhân vật. Những nhân vật trong tác phẩm, từ cậu bé Năm đến những người lớn, đều được xây dựng gần gũi, chân thực. Dù là trẻ em hay người lớn, mỗi nhân vật đều mang trong mình những nét riêng, phản ánh rõ tính cách và hoàn cảnh sống của họ.

Dòng sông là biểu tượng trung tâm của tác phẩm, mang ý nghĩa đa tầng: sông là nơi nuôi dưỡng tuổi thơ, nhân chứng của những thay đổi, biến thiên của lịch sử, lòng người, và biểu tượng của dòng chảy cuộc đời. Nó vừa là chốn bình yên vừa là nơi khơi dậy những trăn trở và suy tư của một con người đã đi qua nhiều biến động thời cuộc, nay ngoảnh đầu nhìn lại. Tuổi thơ trong tác phẩm không chỉ là những ký ức đẹp đẽ mà còn là biểu tượng cho những giá trị nhân văn sâu sắc, nhắc nhở con người giữ gìn những ký ức quá khứ, dù có thể có những bất toàn, có những đau thương, nhưng quan trọng là những điều trong sáng và tốt đẹp trong cuộc sống của một thời đại đấu tranh cho quê hương, dân tộc, vẫn luôn được gìn giữ, nhớ về

“Dòng sông thơ ấu” là một tác phẩm mang giá trị lớn cả về nội dung và nghệ thuật. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể lại câu chuyện của riêng mình mà còn kể câu chuyện của cả một thế hệ, của cả một dân tộc. Tác phẩm là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của ký ức, về giá trị của tuổi thơ và tình yêu quê hương. Nguyễn Quang Sáng, với “Dòng sông thơ ấu,” đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ là một cuốn hồi ký văn chương mà còn là một tượng đài nghệ thuật về tuổi thơ và ký ức quê hương. Dưới ngòi bút của ông, dòng sông không chỉ chảy trên trang giấy mà còn chảy vào lòng người đọc, mang theo những xúc cảm và suy tư về cuộc đời.

Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn lớn với sự nghiệp gắn bó mật thiết với vận mệnh đất nước. Những tác phẩm của ông, trong đó có “Dòng sông thơ ấu” là một phần không thể thiếu trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm