TIN TỨC

Giá trị nhân văn trong tiểu thuyết ‘Làm dâu’ của Duyên Phùng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-05 21:50:24
mail facebook google pos stwis
3026 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Làm dâu của Duyên Phùng là câu chuyện cảm động, ở đó có những niềm đau, nỗi buồn, những giọt nước mắt bởi những điều không trọn vẹn. Số phận và cuộc đời của May được chính nhân vật kể lại một cách tỉ mỉ, chi tiết với tất cả những gì đã xảy ra với bản thân. Từ lúc về làm dâu cho đến khi sinh con, ra ở riêng đến lúc con đã trưởng thành... với bao thăng trầm, tổn thương và cả những thua thiệt trong cuộc sống thường nhật của người phụ nữ.

May luôn đấu tranh giữa việc lựa chọn một cuộc sống tự do để thực hiện khao khát của chính mình với cuộc sống bình yên khi lấy chồng có công ăn việc làm ổn định, kinh tế nhà chồng ổn. Cuối cùng, May đã chọn cuộc sống bình yên. Nhưng đó lại là một chuỗi dài những bi kịch khi tình yêu không được trọn vẹn, những định kiến, bao biến cố ập đến với chị và gia đình. Một tay May phải lo toan, định liệu.

“Học hết cấp ba trường dân tộc nội trú thì tôi lấy chồng tôi bây giờ. Người đàn ông làm nghề xây dựng, nay đây mai đó. Người ấy làm chủ của một toán thợ xây dựng khoảng ba mươi người, vào bản tôi xây công trình thủy lợi.

Mười sáu tuổi, bảy tháng tôi làm vợ người ấy. Người đàn ông hơn tôi tròn ba mươi tuổi. Đã có một đời vợ và con riêng. Con riêng của chồng tôi hơn tôi bốn tuổi (Điều ấy mãi sau này tôi mới biết)”...

Những chấn thương trong cuộc hôn nhân không đến từ tình yêu do May lựa chọn đã tạo thành vết thương lòng. Không chỉ mình May, mà số phận nhiều người phụ nữ trong tác phẩm cũng đều có những nỗi khổ tâm riêng. Mỗi nhân vật đã được vô thức ẩn chứa, làm cho họ sống trong ám ảnh, đau khổ dồn nén, có lúc rơi vào trạng thái bất an. Hình ảnh người phụ nữ tảo tần, bao dung, sẵn sàng hy sinh vì chồng con để vun vén cho hạnh phúc gia đình thật đáng trân trọng.  Hình ảnh mẹ chồng, nàng dâu và cách đối xử của họ với nhau thật đáng quý. Tình yêu thương, sự cảm thông đã giúp họ tìm thấy sự đồng điệu, gắn bó như ruột thịt. Chính người mẹ chồng là điểm tựa vững chắc nhất để May làm tròn bổn phận và thiên chức của một người mẹ, người vợ. Những phong tục, tập quán của người đồng bào dân tộc Tây Bắc cũng được Duyên Phùng khéo léo lồng ghép vào từng tình huống, sự việc cụ thể gây được sự chú ý đối với người đọc.

Điều đặc biệt là Duyên Phùng có sử dụng những yếu tố về vô thức, giấc mơ, những ẩn ức về thời tuổi trẻ. Điều này giúp chị khai thác thác sâu hơn thế giới nội tâm nhân vật, biểu hiện hiệu quả hơn nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Làm dâu là một câu chuyện buồn nhiều hơn vui nhưng lại có sức hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối tác phẩm, bởi những tình huống chân thực, tưởng gần gũi lại hóa ra xa lạ, tưởng của thời đại trước nhưng lại đang tồn tại và xảy ra ở thời hiện đại. Chuyện thật mà như ảo, đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Duyên Phùng rất có duyên trong việc kể, tả; chị kể một cách chậm rãi, nhấn nhá tự nhiên, nhẹ nhàng mà tinh tế và đầy chắt lắng.

Chính cuộc hôn nhân chênh lệch tuổi tác với người đàn ông lớn hơn mình 30 tuổi  và cả những lời hứa “suông” đã càng khiến cho May thêm hụt hẫng. Nỗi nhớ gia đình, mẹ cha, người thân và những năm tháng đi học, khao khát được làm cô giáo... càng làm cho May thấm thía nỗi đau, sự tủi hờn và cả những uất ức.

“Về làm dâu, lấy người chồng mà mình không yêu. Sắp tết rồi! Đêm nào tôi cũng khóc vì nhớ nhà, nhớ trường lớp, nhớ bản. Sau tết có khi hội bản này nối sang bản kia cả tháng, chợ nào cũng đông nghìn nghịt, con gái con trai mặc đẹp, đeo đầy vòng bạc, mua sắm thì ít mà ngắm nhau thì nhiều. Những đứa gái mười ba, mười bốn tuổi khỏe khoắn. Đôi nhũ nhô lên sau làn áo cóm mỏng, nửa như vênh vang, nửa như thèn thẹn. Lũ trai gái thường rủ nhau ra bãi cỏ chơi, cười rúc rích. Đi ngang qua nhà í ới gọi tôi. Tôi ghét lũ trai dán con mắt vào gáy tôi mỗi lần tôi đi qua. Tôi muốn thương và một người đàn ông giống như Ải tôi, vợ không biết đẻ con trai cũng không bỏ đi lấy người khác...”.

Mỗi một con người mà May gặp, mỗi sự việc xảy ra đối với cô đều để lại một câu chuyện, một ý nghĩa, một bài học cho cuộc đời. Vì thế, May phải sống, phải trải nghiệm với những ám ảnh đắng cay để làm tròn bổn phận và sự hiếu nghĩa với mẹ cha, ông bà. Sự va đập của cuộc người, cuộc đời, cuộc sống hôn nhân và hoàn cảnh không may xảy ra với mình. Chồng May lại lâm bệnh trọng, May lại vùi đầu vào với nhiều trọng trách, gánh nặng cơm áo, sự gìn giữ mái ấm gia đình... Những bất trắc ấy như là sự đánh đố và thử thách đối với May...

Ngôn ngữ trong Làm dâu của Duyên Phùng rất giản dị, trong sáng, giàu tính nhạc, thấm đẫm chất thơ.... Câu chuyện kết thúc mở, với những day dứt, xót xa, đặt ra bao nhiêu câu hỏi và gợi lên trong lòng bạn đọc về bao giá trị nhân văn của cuộc sống.

“Duyên Phùng là cô gái Thái họ Phùng, tên trong tác phẩm là May và nick name là Duyên Phùng. May làm dâu nhà họ Hoàng, Tiên Lữ, Hưng Yên từ tháng 10/1991 khi mới 16 tuổi. May từng học cấp 3 trường dân tộc nội trú của tỉnh Lào Cai. Thật tiếc cho một tài năng văn học như Duyên Phùng lại không có cơ hội được đào tạo chuyên ngành Ngữ văn ở một trường đại học nào đó. Tuy nhiên, có lẽ cũng nhờ những cái không may đó của Duyên Phùng mà chúng ta được đọc một tác phẩm văn học tả thực hay đến vậy, rất núi rừng, rất chân quê, rất đời, rất đạo. Người đọc ngất ngây, sửng sốt về cách tả cảnh, lối viết ẩn dụ và kiến thức văn hóa đáng nể của Duyên Phùng cả về dân tộc Thái lẫn dân tộc Kinh” (Nguyễn Văn Nọi).

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm