TIN TỨC

Giá trị nhân văn trong tiểu thuyết ‘Làm dâu’ của Duyên Phùng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-05 21:50:57
mail facebook google pos stwis
1478 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Làm dâu của Duyên Phùng là câu chuyện cảm động, ở đó có những niềm đau, nỗi buồn, những giọt nước mắt bởi những điều không trọn vẹn. Số phận và cuộc đời của May được chính nhân vật kể lại một cách tỉ mỉ, chi tiết với tất cả những gì đã xảy ra với bản thân. Từ lúc về làm dâu cho đến khi sinh con, ra ở riêng đến lúc con đã trưởng thành... với bao thăng trầm, tổn thương và cả những thua thiệt trong cuộc sống thường nhật của người phụ nữ.

May luôn đấu tranh giữa việc lựa chọn một cuộc sống tự do để thực hiện khao khát của chính mình với cuộc sống bình yên khi lấy chồng có công ăn việc làm ổn định, kinh tế nhà chồng ổn. Cuối cùng, May đã chọn cuộc sống bình yên. Nhưng đó lại là một chuỗi dài những bi kịch khi tình yêu không được trọn vẹn, những định kiến, bao biến cố ập đến với chị và gia đình. Một tay May phải lo toan, định liệu.

“Học hết cấp ba trường dân tộc nội trú thì tôi lấy chồng tôi bây giờ. Người đàn ông làm nghề xây dựng, nay đây mai đó. Người ấy làm chủ của một toán thợ xây dựng khoảng ba mươi người, vào bản tôi xây công trình thủy lợi.

Mười sáu tuổi, bảy tháng tôi làm vợ người ấy. Người đàn ông hơn tôi tròn ba mươi tuổi. Đã có một đời vợ và con riêng. Con riêng của chồng tôi hơn tôi bốn tuổi (Điều ấy mãi sau này tôi mới biết)”...

Những chấn thương trong cuộc hôn nhân không đến từ tình yêu do May lựa chọn đã tạo thành vết thương lòng. Không chỉ mình May, mà số phận nhiều người phụ nữ trong tác phẩm cũng đều có những nỗi khổ tâm riêng. Mỗi nhân vật đã được vô thức ẩn chứa, làm cho họ sống trong ám ảnh, đau khổ dồn nén, có lúc rơi vào trạng thái bất an. Hình ảnh người phụ nữ tảo tần, bao dung, sẵn sàng hy sinh vì chồng con để vun vén cho hạnh phúc gia đình thật đáng trân trọng.  Hình ảnh mẹ chồng, nàng dâu và cách đối xử của họ với nhau thật đáng quý. Tình yêu thương, sự cảm thông đã giúp họ tìm thấy sự đồng điệu, gắn bó như ruột thịt. Chính người mẹ chồng là điểm tựa vững chắc nhất để May làm tròn bổn phận và thiên chức của một người mẹ, người vợ. Những phong tục, tập quán của người đồng bào dân tộc Tây Bắc cũng được Duyên Phùng khéo léo lồng ghép vào từng tình huống, sự việc cụ thể gây được sự chú ý đối với người đọc.

Điều đặc biệt là Duyên Phùng có sử dụng những yếu tố về vô thức, giấc mơ, những ẩn ức về thời tuổi trẻ. Điều này giúp chị khai thác thác sâu hơn thế giới nội tâm nhân vật, biểu hiện hiệu quả hơn nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Làm dâu là một câu chuyện buồn nhiều hơn vui nhưng lại có sức hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối tác phẩm, bởi những tình huống chân thực, tưởng gần gũi lại hóa ra xa lạ, tưởng của thời đại trước nhưng lại đang tồn tại và xảy ra ở thời hiện đại. Chuyện thật mà như ảo, đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Duyên Phùng rất có duyên trong việc kể, tả; chị kể một cách chậm rãi, nhấn nhá tự nhiên, nhẹ nhàng mà tinh tế và đầy chắt lắng.

Chính cuộc hôn nhân chênh lệch tuổi tác với người đàn ông lớn hơn mình 30 tuổi  và cả những lời hứa “suông” đã càng khiến cho May thêm hụt hẫng. Nỗi nhớ gia đình, mẹ cha, người thân và những năm tháng đi học, khao khát được làm cô giáo... càng làm cho May thấm thía nỗi đau, sự tủi hờn và cả những uất ức.

“Về làm dâu, lấy người chồng mà mình không yêu. Sắp tết rồi! Đêm nào tôi cũng khóc vì nhớ nhà, nhớ trường lớp, nhớ bản. Sau tết có khi hội bản này nối sang bản kia cả tháng, chợ nào cũng đông nghìn nghịt, con gái con trai mặc đẹp, đeo đầy vòng bạc, mua sắm thì ít mà ngắm nhau thì nhiều. Những đứa gái mười ba, mười bốn tuổi khỏe khoắn. Đôi nhũ nhô lên sau làn áo cóm mỏng, nửa như vênh vang, nửa như thèn thẹn. Lũ trai gái thường rủ nhau ra bãi cỏ chơi, cười rúc rích. Đi ngang qua nhà í ới gọi tôi. Tôi ghét lũ trai dán con mắt vào gáy tôi mỗi lần tôi đi qua. Tôi muốn thương và một người đàn ông giống như Ải tôi, vợ không biết đẻ con trai cũng không bỏ đi lấy người khác...”.

Mỗi một con người mà May gặp, mỗi sự việc xảy ra đối với cô đều để lại một câu chuyện, một ý nghĩa, một bài học cho cuộc đời. Vì thế, May phải sống, phải trải nghiệm với những ám ảnh đắng cay để làm tròn bổn phận và sự hiếu nghĩa với mẹ cha, ông bà. Sự va đập của cuộc người, cuộc đời, cuộc sống hôn nhân và hoàn cảnh không may xảy ra với mình. Chồng May lại lâm bệnh trọng, May lại vùi đầu vào với nhiều trọng trách, gánh nặng cơm áo, sự gìn giữ mái ấm gia đình... Những bất trắc ấy như là sự đánh đố và thử thách đối với May...

Ngôn ngữ trong Làm dâu của Duyên Phùng rất giản dị, trong sáng, giàu tính nhạc, thấm đẫm chất thơ.... Câu chuyện kết thúc mở, với những day dứt, xót xa, đặt ra bao nhiêu câu hỏi và gợi lên trong lòng bạn đọc về bao giá trị nhân văn của cuộc sống.

“Duyên Phùng là cô gái Thái họ Phùng, tên trong tác phẩm là May và nick name là Duyên Phùng. May làm dâu nhà họ Hoàng, Tiên Lữ, Hưng Yên từ tháng 10/1991 khi mới 16 tuổi. May từng học cấp 3 trường dân tộc nội trú của tỉnh Lào Cai. Thật tiếc cho một tài năng văn học như Duyên Phùng lại không có cơ hội được đào tạo chuyên ngành Ngữ văn ở một trường đại học nào đó. Tuy nhiên, có lẽ cũng nhờ những cái không may đó của Duyên Phùng mà chúng ta được đọc một tác phẩm văn học tả thực hay đến vậy, rất núi rừng, rất chân quê, rất đời, rất đạo. Người đọc ngất ngây, sửng sốt về cách tả cảnh, lối viết ẩn dụ và kiến thức văn hóa đáng nể của Duyên Phùng cả về dân tộc Thái lẫn dân tộc Kinh” (Nguyễn Văn Nọi).

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm