TIN TỨC

Giá trị nhân văn trong tiểu thuyết ‘Làm dâu’ của Duyên Phùng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-05 21:50:24
mail facebook google pos stwis
2916 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Làm dâu của Duyên Phùng là câu chuyện cảm động, ở đó có những niềm đau, nỗi buồn, những giọt nước mắt bởi những điều không trọn vẹn. Số phận và cuộc đời của May được chính nhân vật kể lại một cách tỉ mỉ, chi tiết với tất cả những gì đã xảy ra với bản thân. Từ lúc về làm dâu cho đến khi sinh con, ra ở riêng đến lúc con đã trưởng thành... với bao thăng trầm, tổn thương và cả những thua thiệt trong cuộc sống thường nhật của người phụ nữ.

May luôn đấu tranh giữa việc lựa chọn một cuộc sống tự do để thực hiện khao khát của chính mình với cuộc sống bình yên khi lấy chồng có công ăn việc làm ổn định, kinh tế nhà chồng ổn. Cuối cùng, May đã chọn cuộc sống bình yên. Nhưng đó lại là một chuỗi dài những bi kịch khi tình yêu không được trọn vẹn, những định kiến, bao biến cố ập đến với chị và gia đình. Một tay May phải lo toan, định liệu.

“Học hết cấp ba trường dân tộc nội trú thì tôi lấy chồng tôi bây giờ. Người đàn ông làm nghề xây dựng, nay đây mai đó. Người ấy làm chủ của một toán thợ xây dựng khoảng ba mươi người, vào bản tôi xây công trình thủy lợi.

Mười sáu tuổi, bảy tháng tôi làm vợ người ấy. Người đàn ông hơn tôi tròn ba mươi tuổi. Đã có một đời vợ và con riêng. Con riêng của chồng tôi hơn tôi bốn tuổi (Điều ấy mãi sau này tôi mới biết)”...

Những chấn thương trong cuộc hôn nhân không đến từ tình yêu do May lựa chọn đã tạo thành vết thương lòng. Không chỉ mình May, mà số phận nhiều người phụ nữ trong tác phẩm cũng đều có những nỗi khổ tâm riêng. Mỗi nhân vật đã được vô thức ẩn chứa, làm cho họ sống trong ám ảnh, đau khổ dồn nén, có lúc rơi vào trạng thái bất an. Hình ảnh người phụ nữ tảo tần, bao dung, sẵn sàng hy sinh vì chồng con để vun vén cho hạnh phúc gia đình thật đáng trân trọng.  Hình ảnh mẹ chồng, nàng dâu và cách đối xử của họ với nhau thật đáng quý. Tình yêu thương, sự cảm thông đã giúp họ tìm thấy sự đồng điệu, gắn bó như ruột thịt. Chính người mẹ chồng là điểm tựa vững chắc nhất để May làm tròn bổn phận và thiên chức của một người mẹ, người vợ. Những phong tục, tập quán của người đồng bào dân tộc Tây Bắc cũng được Duyên Phùng khéo léo lồng ghép vào từng tình huống, sự việc cụ thể gây được sự chú ý đối với người đọc.

Điều đặc biệt là Duyên Phùng có sử dụng những yếu tố về vô thức, giấc mơ, những ẩn ức về thời tuổi trẻ. Điều này giúp chị khai thác thác sâu hơn thế giới nội tâm nhân vật, biểu hiện hiệu quả hơn nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Làm dâu là một câu chuyện buồn nhiều hơn vui nhưng lại có sức hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối tác phẩm, bởi những tình huống chân thực, tưởng gần gũi lại hóa ra xa lạ, tưởng của thời đại trước nhưng lại đang tồn tại và xảy ra ở thời hiện đại. Chuyện thật mà như ảo, đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Duyên Phùng rất có duyên trong việc kể, tả; chị kể một cách chậm rãi, nhấn nhá tự nhiên, nhẹ nhàng mà tinh tế và đầy chắt lắng.

Chính cuộc hôn nhân chênh lệch tuổi tác với người đàn ông lớn hơn mình 30 tuổi  và cả những lời hứa “suông” đã càng khiến cho May thêm hụt hẫng. Nỗi nhớ gia đình, mẹ cha, người thân và những năm tháng đi học, khao khát được làm cô giáo... càng làm cho May thấm thía nỗi đau, sự tủi hờn và cả những uất ức.

“Về làm dâu, lấy người chồng mà mình không yêu. Sắp tết rồi! Đêm nào tôi cũng khóc vì nhớ nhà, nhớ trường lớp, nhớ bản. Sau tết có khi hội bản này nối sang bản kia cả tháng, chợ nào cũng đông nghìn nghịt, con gái con trai mặc đẹp, đeo đầy vòng bạc, mua sắm thì ít mà ngắm nhau thì nhiều. Những đứa gái mười ba, mười bốn tuổi khỏe khoắn. Đôi nhũ nhô lên sau làn áo cóm mỏng, nửa như vênh vang, nửa như thèn thẹn. Lũ trai gái thường rủ nhau ra bãi cỏ chơi, cười rúc rích. Đi ngang qua nhà í ới gọi tôi. Tôi ghét lũ trai dán con mắt vào gáy tôi mỗi lần tôi đi qua. Tôi muốn thương và một người đàn ông giống như Ải tôi, vợ không biết đẻ con trai cũng không bỏ đi lấy người khác...”.

Mỗi một con người mà May gặp, mỗi sự việc xảy ra đối với cô đều để lại một câu chuyện, một ý nghĩa, một bài học cho cuộc đời. Vì thế, May phải sống, phải trải nghiệm với những ám ảnh đắng cay để làm tròn bổn phận và sự hiếu nghĩa với mẹ cha, ông bà. Sự va đập của cuộc người, cuộc đời, cuộc sống hôn nhân và hoàn cảnh không may xảy ra với mình. Chồng May lại lâm bệnh trọng, May lại vùi đầu vào với nhiều trọng trách, gánh nặng cơm áo, sự gìn giữ mái ấm gia đình... Những bất trắc ấy như là sự đánh đố và thử thách đối với May...

Ngôn ngữ trong Làm dâu của Duyên Phùng rất giản dị, trong sáng, giàu tính nhạc, thấm đẫm chất thơ.... Câu chuyện kết thúc mở, với những day dứt, xót xa, đặt ra bao nhiêu câu hỏi và gợi lên trong lòng bạn đọc về bao giá trị nhân văn của cuộc sống.

“Duyên Phùng là cô gái Thái họ Phùng, tên trong tác phẩm là May và nick name là Duyên Phùng. May làm dâu nhà họ Hoàng, Tiên Lữ, Hưng Yên từ tháng 10/1991 khi mới 16 tuổi. May từng học cấp 3 trường dân tộc nội trú của tỉnh Lào Cai. Thật tiếc cho một tài năng văn học như Duyên Phùng lại không có cơ hội được đào tạo chuyên ngành Ngữ văn ở một trường đại học nào đó. Tuy nhiên, có lẽ cũng nhờ những cái không may đó của Duyên Phùng mà chúng ta được đọc một tác phẩm văn học tả thực hay đến vậy, rất núi rừng, rất chân quê, rất đời, rất đạo. Người đọc ngất ngây, sửng sốt về cách tả cảnh, lối viết ẩn dụ và kiến thức văn hóa đáng nể của Duyên Phùng cả về dân tộc Thái lẫn dân tộc Kinh” (Nguyễn Văn Nọi).

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm