TIN TỨC

Khắc họa một vùng văn hóa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-02-17 20:07:08
mail facebook google pos stwis
1372 lượt xem

NGUYỄN TRƯỜNG
(Đọc tiểu thuyết “Bửu sơn kỳ hương” của Lý Lan, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2022)

Lâu nay, nhiều người quan niệm, một cuốn tiểu thuyết hay, trước hết phải mới ở thi pháp, nghĩa là nó mang đến cho độc giả cách thể hiện lạ, chí ít cũng đang là model của thời cuộc mà những người viết trẻ đang hăm hở thực hiện. Nhưng ở tiểu thuyết Bửu sơn kỳ hương của Lý Lan thì hình như không phải thế, vẫn bút pháp hiện thực nghiêm ngặt, vẫn cách kể truyền thống, thậm chí không có cả không gian hồi tưởng, không gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau, chứ chưa nói đến kiểu viết hậu hiện đại đang được nhiều người nói đến, như: Mãnh vỡ, trò chơi, phi trung tâm, liên văn bản, nhại, mê lộ, nghịch dị, huyền ảo... Nhưng đọc Bửu sơn kỳ hương vẫn hay, hay ở giọng văn, ở nghệ thuật khắc họa nhân vật, ở chi tiết đắt giá, ở vốn sống, vốn văn hóa của tác giả được thể hiện rất linh hoạt, tài tình.

Bố cục cuốn sách theo thời gian tuyến tính, các nhân vật được xếp làm ba nhóm, nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai không mâu thuẫn nhau, thậm chí còn bổ sung cho nhau làm nổi bật tính cách nhân vật. Nhóm thứ nhất là ông Phật Ngồi, Bình, Chị Hai, ông bà Tư, Hà Vinh Long... Nhóm thứ hai là những người Minh Hương như gia đình ông Ứng Xương, ông chủ nhà thuốc Phước Xuân Đường, ông Hòa, Tuấn, Vĩnh Xương, Tịnh... Nhóm thứ ba phản diện là quan lại triều đình bảo thủ, lạc hậu, là quân Pháp xâm lược, là những kẻ làm tay sai cho thực dân Pháp...

Bối cảnh câu chuyện xảy ra từ cuối thời vua Gia Long, qua thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, một thời kỳ đầy giông bão của lịch sử Việt Nam. Câu chuyện xoay quanh nhân vật huyền thoại, ông Phật Ngồi, sau này trở thành giáo chủ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, có cách tu theo kiểu người Việt, phù hợp với văn hóa người Việt nên cuốn hút được khá nhiều tín đồ. Xuyên suốt không gian và thời gian của truyện là kể về gia tộc người Hoa, vốn là người Minh Hương sang nước ta chưa lâu, những người phản Thanh phục Minh, được các chúa Nguyễn cưu mang, cấp đất cho sinh sống và trở thành một bộ phận tích cực trong xã hội Việt Nam. Sự gặp nhau giữa ông Phật Ngồi và gia tộc người hoa của dòng họ Huỳnh cũng đều làm thuốc cứu người. Giữa lúc Nam bộ đang bị dịch bệnh. Phật Ngồi học thuốc nhờ nhiều năm tu trên núi, kể cả học được một số vị thuốc ở Phước Xuân Đường của ông chủ Tế Xương. Dòng họ Huỳnh từ ông nội đã truyền đời cho ông Ứng Xương, ông Tế Xương, đến đời Vĩnh Xương. Dòng họ Huỳnh cũng chịu nhiều mất mát khi thời cuộc đảo điên. Cụ Thượng, Tổng trấn thành Gia Định qua đời, đến loạn Lê Văn Khôi. Ông Ứng Xương, với vai trò là lương y vào thành trị bệnh cho quân lính đã bị mắc kẹt trong thành, bị quan quân triều đình đánh thành và chết trong đám loạn quân. Gia đình Ứng Xương cũng bị liên lụy theo, phải trốn tránh sự truy lùng của quan quân triều đình. Thậm chí ông Phật Ngồi cũng bị nhốt tù vì nghi là kẻ phản loạn. Mãi đến thời Thiệu Trị, Cụ thượng (Lê Văn Duyệt) được minh oan, thì vụ án Phước Xuân Đường mới được gỡ bỏ.

Trên cái nền cốt truyện đó, Lý Lan đã kể bằng giọng giàu hình ảnh, đưa người đọc khám phá một vùng đất mới khai mở, từ Châu Đốc, sát biên giới với nước láng giềng Chân Lạp xuôi dòng Cửu Long xuống Sa Đéc, Vĩnh Long, sang sông Vàm Cỏ, sông Bến Nghé, sông Đồng Nai với Cù Lao Phố,  Biên Hòa, Đề Ngạn... Người ta  sống trong không gian sông nước, đi lại chủ yếu bằng thuyền. Ta gặp những con người nghèo khổ, phóng khoáng, với những căn nhà ở hôm trước, hôm sau dời đi, chỉ cần vài cái đạp là dọn xong. Cảnh sông nước cá tôm nhiều đến dùng tay không cũng bắt được, ăn thoải mái. Sống trên cồn vắng mấy mùa mưa nắng mà vẫn kiếm được cái ăn từ thiên nhiên. Hình như con người nơi đây không mấy quan tâm đến cái ăn, cái mặc vì được thiên nhiên ưu đãi. Thiên nhiên, xã hội đã tạo nên tính cách con người Nam bộ, trọng người nghĩa khí. Người Minh Hương sang ở chung với những người Việt đã cộng sinh, giúp đỡ nhau, gắn bó với nhau. Chính những người Nam bộ đã làm thay đổi cách sống của người Minh Hương, hình như họ cũng chân thành hơn, phóng khoáng hơn. Họ tựa vào nhau bằng đức tin tôn giáo, bằng tình người, bằng lòng nhân hậu. Trong truyện ta gặp các nhân vật như chị Hai, Bình, ông bà Tư... xoay quanh nhân vật ông Phật Ngồi, họ vừa làm nổi bật ông Phật Ngồi, vừa thể hiện chất hồn nhiên của người dân Nam bộ.

Ông Phật Ngồi, nguyên mẫu là Đạo Lành, sau này được gọi là Phật Thầy Tây An do ông Đoàn Minh Huyên sáng lập. Ông có tài trị bệnh cho dân, có người chữa khỏi, có người không. Người không qua khỏi thì cho là mình nặng kiếp, do không có phước. Người trị khỏi thì cho rằng mình được phật trời phù trợ. Tiếng lành đồn xa, người ta tin theo những lời răn dạy của ông. Bửu Sơn là núi báu, Kỳ Hương là hương thơm lạ. Noi theo giáo lý nhà phật mà tu sửa con người. Nhưng cụ thể hơn, đạo lấy thuyết tứ ân làm gốc như: Ân tổ tiên, ân đất nước, ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại. Đạo của ông tu theo thuyết vô vi, nghĩa là không chú trọng vào hình thức như thờ tượng phật, không cần ly gia cắt ái,  không cần ăn chay, cạo râu, cạo tóc, gõ mõ tụng kinh...Ngay cả khi ông Phật ngồi, chị Hai, Bình bị bỏ rơi trên cồn vắng cả năm trời, Bình vẫn thấy ông Phật ngồi tĩnh tọa, bình thản. Bình thản cả khi chị Hai trong đêm vắng “Chị ngắm gương mặt bị râu tóc phủ kín của người đó. Mặc cho gió thổi râu tóc phất phơ, người đó không hề đưa tay lên vuốt hay buộc lại. Trừ món râu tóc kỳ dị, người đó ngồi bất động như một pho tượng Phật. Chị càng tin đó là Phật sống, vì ngay cả khi chị cầm tay người đó đưa lên ngực mình, chị nhận ra đôi mắt người đó sự thương yêu chứ không phải ham muốn. Cả khi chị say men hay say cái quỷ gì hồi khuya, nằm lăn ra gối đầu lên đùi người đó, mà khi thức giấc ngóc đầu lên nhìn, chị thấy đôi mắt của người đó điềm nhiên nhìn con đò đã lui ra khỏi bãi...” (Trang 31). Sau này, chính ông Phật Ngồi đã cuốn nhân dân kéo về Bảy Núi để lập làng kháng chiến chống lại quân xâm lược Pháp, đúng theo giáo lý của ông “ Ân đất nước”. Nhân vật giáo phái tu theo kiểu riêng chỉ có ở người Nam bộ, lòng thương dân, lòng yêu nước và cuốn hút người dân đi theo cũng đúng theo kiểu Nam bộ.

Nhân vật Chị Hai cũng rất đặc biệt, chị sống tự do, gặp hoàn cảnh éo le bị dạt sang cồn vắng, chính chị là người đảm đang nhất lo cho ông Phật Ngồi và anh chàng Bình hậu đậu. Chị biết bện dây rừng làm võng, cất chòi cho cả ba người ở, đi hái rau tập tàng về cho cả ba người ăn, chị lo cho họ như lo cho người thân của mình một cách vô tư. Rồi chị có bầu với Bình, trong một trận lũ kinh hoàng, chị bị đẻ rớt từ trên ngọn cây. Thai nhi rớt xuống nước còn mang theo nhau và cuống rốn. Không sợ nguy hiểm, chi nhào xuống nước theo con và bị lũ cuốn đi. May nhờ ông bà Tư, đôi vợ chồng già neo đơn đã cứu vớt được mẹ con chị, cưu mang hai mẹ con với tấm lòng nhân hậu. Còn anh chàng Bình, người làm công cho Phước Xuân Đường, được ông chủ sai đi theo giúp đỡ Phật thầy, tuy hơi hậu đậu nhưng anh tỏ ra là người thật thà, trung thành với chủ. Chính anh sau này đã theo Phật thầy kéo về Bảy Núi cùng nhân dân kháng chiến chống Pháp.

Những nhân vật người Hoa trong truyện được tác giả xây dựng khá thành công. Họ là những người có tầm nhìn xa, có ơn trả ơn bằng việc trung thành với các chúa Nguyễn khi các chúa Nguyễn cho họ vào sinh sống ở đất Nam bộ. Họ giúp đỡ các chúa Nguyễn ngay cả khi chúa Nguyễn bị thất bại, lúc Nguyễn Ánh chỉ còn vài chục người đi theo. Chính vì sự trung thành đó họ bị Tây Sơn trả thù, truy sát. Nhưng khi Nguyễn Ánh thành công, lên làm vua, họ lại không ra làm quan, chỉ mở nhà thuốc cứu dân, nhất là khi đại dịch kéo đến, họ dám liều mạng ở trong tâm dịch để cứu chữa cho các nạn nhân vô vụ lợi. Qua ngòi bút của Lý Lan, những người Hoa thật độ lượng, thật quảng giao, trọng nghĩa khí. Có ơn trả ơn, có lỗi tìm cách chuộc lỗi. Khi thực dân Pháp cại trị, mặc dù họ biết tiếng Pháp cũng không ra hợp tác với quân xâm lược. Cũng có người đã theo ông Đạo Ngồi lên núi kháng chiến chống Pháp. Có lẽ Lý Lan sinh ra, lớn lên trong gia tộc người Hoa nên chị rất rành tính cách, văn hóa người Hoa. Những trang viết của chị có tâm thức người Hoa, nó bàng bạc trong những câu chữ không dễ dẫn ra được, nhưng chị đã thành công khi xây dựng những nhân vật này.

Cuối cùng là nhân vật hiện nay vẫn còn tranh cãi là nên tôn vinh hay lên án đó là Phan Thanh Giản, làm quan qua mấy đời vua nhà Nguyễn, cuối cùng là vua Tự Đức. Ông nhiều lần bị giáng chức rồi lại phục chức. Vua giao trọng trách cho ông sang Pháp đàm phán chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam bộ, nhưng cuộc đàm phán thất bại- dĩ nhiên. Vua giao cho ông trấn nhậm vùng biên địa phương Nam khi ông đã bước qua tuổi bảy mươi. Lúc “Mười mấy tàu Pháp đậu kín mặt nước trước thành Vĩnh Long, cả trăm nòng pháo chĩa vào thành...Pháo của chúng sẽ bắn tan nát thành lũy trong vòng một giờ, sau đó năm ngàn lính tập được huấn luyện kỹ và một ngàn chiến sĩ dũng mãnh Pháp với vũ khí tối tân sẽ đổ bộ và giết bất kỳ kẻ kháng cự nào...Ông Giản đứng như trời trồng. Ông không chỉ nghĩ đến vợ con... ông nghĩ đến hàng ngàn gia đình tỵ địa chưa kịp ở yên, ông nghĩ đến hàng trăm sĩ tử tuổi đôi mươi và tất cả sĩ phu đang tụ tập ở Văn thánh miếu, ông nghĩ đến hàng vạn người đang cấy lúa, đắp bờ, phần lớn là đàn bà trẻ con. Ông chấp nhận giao thành với điều kiện quan Pháp không cho lính tàn sát nhân dân” (trang 327,328). Rồi ông nhận trách nhiệm về mình bằng cách nhịn ăn, qua mười ngày vẫn chưa tới chỗ hoại, ông uống thuốc độc, chết trong đau đớn. Cái chết của Phan Thanh Giản giống như cái chết của Võ Tánh và Ngô Tòng Chu khi không giữ được thành Bình Định thời chúa Nguyễn Ánh. Trước khi chết, họ cũng yêu cầu quân địch không sát hại nhân dân và những người lính trong thành. Ngày nay nhìn lại, ta nên rộng lượng cho cụ Giản vì vũ khí thời đó của quân ta còn thô sơ, không thể đấu với súng trường, đại bác công phá ghê gớm, có chiến cũng sẽ thất bại, lại làm liên lụy đến hàng ngàn người phải chết thê thảm. Ông nhận trách nhiệm về mình và tuẫn tiết một cách bị hùng.

Tuy vậy cuối cuốn tiểu thuyết tác giả vẫn hé cho người đọc niềm hy vọng, bởi vẫn còn hơn một ngàn người vẫn cầm súng kháng chiến trong núi Cấm, nơi có đại bản doanh của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Nhất là đoạn kết có hậu “ Lịch sử chép, Pháp chiếm toàn cõi nước Việt Nam năm 1884 và phải hoàn toàn rút khỏi Việt Nam sau khi đầu hàng ở Điện Biên Phủ năm 1954”.

Lý Lan đa từng dạy học ở Việt Nam, định cư ở Hoa Kỳ, là tác giả của của hơn 30 đầu sách, dịch giả của bộ sách Harry Potter, nghĩa là chị đang sống trong dòng chảy văn học phương Tây, nhưng chị không bắt chước cách viết theo trào lưu phương Tây. Chị chọn cách viết có vẻ truyền thống, nhưng theo tôi, nghệ thuật cao nhất là thể hiện kỹ năng tốt nhất điều mình muốn nói. Ở Bửu Sơn Kỳ Hương, tác giả Lý Lan bằng cách kể điềm tĩnh, với nhiều chi tiết độc đáo, giàu hình ảnh đã khắc họa được không gian một vùng văn hóa đặc sắc đất phương Nam buổi đầu mở cõi của dân tộc ta, đó là thành công đáng ghi nhận.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm