TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Khúc phiêu ca” “trong căn nhà cửa hẹp” và “cõi lạ” trong thơ Nguyễn Thánh Ngã

“Khúc phiêu ca” “trong căn nhà cửa hẹp” và “cõi lạ” trong thơ Nguyễn Thánh Ngã

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-24 19:27:34
mail facebook google pos stwis
719 lượt xem

TUẤN TRẦN

Nguyễn Thánh Ngã đã tạo ra một “cõi lạ” trong thơ. Khi trải nghiệm văn bản, thực sự tôi bị “thách thức”. Cái thực - ảo mộng mỵ, cái suy nghiệm chập chờn… tất cả như kích động một cuộc tuần du của trí tưởng đầy tính phiêu lưu. Muốn đọc Nguyễn Thánh Ngã, ắt hẳn phải đi sâu vào lòng tiếng, cơi nới mọi trường liên tưởng để có thể dập dờn cùng nhịp thở thời/ không.

Trên mô thức ngôn ngữ và hồn cốt của miền đất đỏ, tác giả đã đặt tên cho những bài thơ thật độc đáo, lạ hóa. Và sự sáng tạo đó đã làm nên những lớp “nghĩa cảm giác” bên cạnh “nghĩa hình tượng”. Người đọc được trải nghiệm bằng “cảm thức ngôn ngữ” trước hết rồi mới bước vào “giải mã”, bóc tách âm hình, ý vị. Trong cách diễn ngôn cách tân sáng tạo và trìu tượng hóa cao độ đã thể hiện rõ sự tinh anh trong chiến lược tư duy, sắp xếp câu chữ, hình tượng để tạo ra âm ngữ tưởng tượng rất nghệ thuật của tác giả.

“Trong căn nhà cửa hẹp” có hai đối tượng được tạo hình bên cạnh/ cùng căn nhà là thơ (nghệ thuật) và em (biểu tượng của đời/ số phận). Nhà thơ đã tế vi xây dựng nên “hoàn cảnh” của mình/ người nghệ sĩ: cơ hồ là “bạc bẽo”. Căn nhà vừa ẩn dụ cho hiện thực tréo ngoe của kẻ đi rao thơ giữa chợ đời. Vừa là ẩn dụ cho cái chật chội của thể xác không thể nào dung chứa được nội tâm ào ạt. Mà ở thời buổi văn chương phải “lom khom”, “luồn bò” dưới gót giày […]. Ở phương diện nào, nghệ sĩ cũng bị “bạc đãi”. Lấy thơ che chắn bão táp nhân sinh, người nghệ sĩ như lấy giấy bọc lửa. Thật vô nghĩa. Và cuối cùng “rách toạc”. Nhưng vẫn bền bỉ khâu vá, bền bỉ trong “chênh vênh” bằng niềm tin như “chân lý ngồi chờ rạng đông bên ngọn đèn hiu hắt”.

Trong không gian “Căn nhà cửa hẹp” ấy đã tạo ra một thực tại “bùng nhùng”. Tất cả như được thống ngự bởi một sức mạnh của nội cảm, cái khát khao muốn “đào thoát”, muốn “xé rào” khỏi vòng cương tỏa. Trong cái nghịch thường của cuộc sống, trong cái “phản trắc” của nhân sinh, người nghệ sĩ đã “nỗ lực” khép/ mở cánh cửa lòng để đón chút gió bụi phong nhiêu. Trong căn nhà tâm tưởng/ căn nhà của hồn thơ, như một kẻ hành nhân cô độc, nghệ nhân ngồi chờ đợi đứa con sinh nở. Căn nhà trong tưởng tượng “cửa hẹp” nhưng không đóng. Đủ hé mở cho “gió” nghé nghe, cho đôi câu thơ đơm nở sau cơn “đau đẻ”, rồi những mũi kim, vết khâu xuyên thấu: Nhà hẹp/ gác hẹp/ khe cửa gió lùa câu thơ/ nhà ta/ gió khép cửa hẹp/ khum tay che bếp lửa hồng/ khom lưng đời mưa gió/ lạnh từng con chữ gầy đông/ thơ rướm nỗi đau/ khe lòng gió thổi/ ta che thơ rách toạc trang đời/ em như tằm nhả tơ/ vá lại trang đời hạnh phúc/ từng mũi kim âm thầm xuyên qua tứ thơ/ tứ thơ cửa hẹp/ chênh vênh bên cửa sổ/ tư tưởng bất ngờ/ đơm hoa…(Trong căn nhà cửa hẹp)

Nguyễn Thánh Ngã đã đi sâu hơn vào cõi tinh thần, để lắng nghe, đối thoại với “im lặng”. “Khúc phiêu ca” như cuộc trải nghiệm/ trừng phạt lên linh giác và quá trình tự thân chữa lành. Những tẩu khúc âm thanh trẹo trọ va đập vào mảnh hồn vô lực, là khi diễn ra cuộc đấu tranh giằng co giữa mưu cầu dục vọng.

Mở đầu bài thơ là sự đối thoại với sâu kín. Hồn thiêng “xóa trắng” mình hòng tách/ khước từ ngoại tại để lắng nghe “khúc phiêu ca của những dòng nhựa/ rì rầm”. Sự mơ hồ, bí ẩn, cuộc phiêu lưu trong địa hạt tâm linh đã tạo ra một không gian chảy tràn, lan thấm những “mưng mủ” của đời sống. Chỉ trong cái hoang mịch, mới là nơi hồn người mới có thể thực hiện quá trình chữa thương.

Ảnh tượng nghệ thuật trong thơ có sự “si ám”, tàng ẩn vào vô thức để tạo ra tiếng thơ lắm lúc “dị thường”, với nhiều “dị ngôn”: Khúc phiêu ca, dịch lặng, hoang nhiên… sự “nỗ lực” làm mới trong diễn ngôn đó đã làm nên sự “khác lạ” trong cách Nguyễn Thánh Ngã làm thơ: không có hình bóng/ không có sự rủi ro của tiếng động/ khúc phiêu ca của những dòng nhựa/ rì rầm.../sự dịch lặng đó/ không bởi âm thanh/ không bởi ánh sáng, bóng tối/ tiếng côn trùng đang bắt nhịp/ cả tổ chim non cũng góp tiếng nói đầu tiên/ và đâu đó, cơn bão bẻ gãy giai điệu/ sự hỗn tạp, đứt quảng, và gào thét của sóng âm/ lấn át những linh hồn bé bỏng/ chúng ta chìm vào thính giác câm/ sự đè nén của những âm giai/ khiến chúng ta quên đi/ trong tận cùng im lặng/ tấu khúc sinh tử luôn bắt đầu/ lộng lẫy/ âm thầm và mãnh liệt/ thổi qua chúng ta/ đánh bạt chúng ta/ những ca từ trôi dạt/ những dòng kẻ hoang nhiên…(Khúc phiêu ca).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm