TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Khúc phiêu ca” “trong căn nhà cửa hẹp” và “cõi lạ” trong thơ Nguyễn Thánh Ngã

“Khúc phiêu ca” “trong căn nhà cửa hẹp” và “cõi lạ” trong thơ Nguyễn Thánh Ngã

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-24 19:27:34
mail facebook google pos stwis
796 lượt xem

TUẤN TRẦN

Nguyễn Thánh Ngã đã tạo ra một “cõi lạ” trong thơ. Khi trải nghiệm văn bản, thực sự tôi bị “thách thức”. Cái thực - ảo mộng mỵ, cái suy nghiệm chập chờn… tất cả như kích động một cuộc tuần du của trí tưởng đầy tính phiêu lưu. Muốn đọc Nguyễn Thánh Ngã, ắt hẳn phải đi sâu vào lòng tiếng, cơi nới mọi trường liên tưởng để có thể dập dờn cùng nhịp thở thời/ không.

Trên mô thức ngôn ngữ và hồn cốt của miền đất đỏ, tác giả đã đặt tên cho những bài thơ thật độc đáo, lạ hóa. Và sự sáng tạo đó đã làm nên những lớp “nghĩa cảm giác” bên cạnh “nghĩa hình tượng”. Người đọc được trải nghiệm bằng “cảm thức ngôn ngữ” trước hết rồi mới bước vào “giải mã”, bóc tách âm hình, ý vị. Trong cách diễn ngôn cách tân sáng tạo và trìu tượng hóa cao độ đã thể hiện rõ sự tinh anh trong chiến lược tư duy, sắp xếp câu chữ, hình tượng để tạo ra âm ngữ tưởng tượng rất nghệ thuật của tác giả.

“Trong căn nhà cửa hẹp” có hai đối tượng được tạo hình bên cạnh/ cùng căn nhà là thơ (nghệ thuật) và em (biểu tượng của đời/ số phận). Nhà thơ đã tế vi xây dựng nên “hoàn cảnh” của mình/ người nghệ sĩ: cơ hồ là “bạc bẽo”. Căn nhà vừa ẩn dụ cho hiện thực tréo ngoe của kẻ đi rao thơ giữa chợ đời. Vừa là ẩn dụ cho cái chật chội của thể xác không thể nào dung chứa được nội tâm ào ạt. Mà ở thời buổi văn chương phải “lom khom”, “luồn bò” dưới gót giày […]. Ở phương diện nào, nghệ sĩ cũng bị “bạc đãi”. Lấy thơ che chắn bão táp nhân sinh, người nghệ sĩ như lấy giấy bọc lửa. Thật vô nghĩa. Và cuối cùng “rách toạc”. Nhưng vẫn bền bỉ khâu vá, bền bỉ trong “chênh vênh” bằng niềm tin như “chân lý ngồi chờ rạng đông bên ngọn đèn hiu hắt”.

Trong không gian “Căn nhà cửa hẹp” ấy đã tạo ra một thực tại “bùng nhùng”. Tất cả như được thống ngự bởi một sức mạnh của nội cảm, cái khát khao muốn “đào thoát”, muốn “xé rào” khỏi vòng cương tỏa. Trong cái nghịch thường của cuộc sống, trong cái “phản trắc” của nhân sinh, người nghệ sĩ đã “nỗ lực” khép/ mở cánh cửa lòng để đón chút gió bụi phong nhiêu. Trong căn nhà tâm tưởng/ căn nhà của hồn thơ, như một kẻ hành nhân cô độc, nghệ nhân ngồi chờ đợi đứa con sinh nở. Căn nhà trong tưởng tượng “cửa hẹp” nhưng không đóng. Đủ hé mở cho “gió” nghé nghe, cho đôi câu thơ đơm nở sau cơn “đau đẻ”, rồi những mũi kim, vết khâu xuyên thấu: Nhà hẹp/ gác hẹp/ khe cửa gió lùa câu thơ/ nhà ta/ gió khép cửa hẹp/ khum tay che bếp lửa hồng/ khom lưng đời mưa gió/ lạnh từng con chữ gầy đông/ thơ rướm nỗi đau/ khe lòng gió thổi/ ta che thơ rách toạc trang đời/ em như tằm nhả tơ/ vá lại trang đời hạnh phúc/ từng mũi kim âm thầm xuyên qua tứ thơ/ tứ thơ cửa hẹp/ chênh vênh bên cửa sổ/ tư tưởng bất ngờ/ đơm hoa…(Trong căn nhà cửa hẹp)

Nguyễn Thánh Ngã đã đi sâu hơn vào cõi tinh thần, để lắng nghe, đối thoại với “im lặng”. “Khúc phiêu ca” như cuộc trải nghiệm/ trừng phạt lên linh giác và quá trình tự thân chữa lành. Những tẩu khúc âm thanh trẹo trọ va đập vào mảnh hồn vô lực, là khi diễn ra cuộc đấu tranh giằng co giữa mưu cầu dục vọng.

Mở đầu bài thơ là sự đối thoại với sâu kín. Hồn thiêng “xóa trắng” mình hòng tách/ khước từ ngoại tại để lắng nghe “khúc phiêu ca của những dòng nhựa/ rì rầm”. Sự mơ hồ, bí ẩn, cuộc phiêu lưu trong địa hạt tâm linh đã tạo ra một không gian chảy tràn, lan thấm những “mưng mủ” của đời sống. Chỉ trong cái hoang mịch, mới là nơi hồn người mới có thể thực hiện quá trình chữa thương.

Ảnh tượng nghệ thuật trong thơ có sự “si ám”, tàng ẩn vào vô thức để tạo ra tiếng thơ lắm lúc “dị thường”, với nhiều “dị ngôn”: Khúc phiêu ca, dịch lặng, hoang nhiên… sự “nỗ lực” làm mới trong diễn ngôn đó đã làm nên sự “khác lạ” trong cách Nguyễn Thánh Ngã làm thơ: không có hình bóng/ không có sự rủi ro của tiếng động/ khúc phiêu ca của những dòng nhựa/ rì rầm.../sự dịch lặng đó/ không bởi âm thanh/ không bởi ánh sáng, bóng tối/ tiếng côn trùng đang bắt nhịp/ cả tổ chim non cũng góp tiếng nói đầu tiên/ và đâu đó, cơn bão bẻ gãy giai điệu/ sự hỗn tạp, đứt quảng, và gào thét của sóng âm/ lấn át những linh hồn bé bỏng/ chúng ta chìm vào thính giác câm/ sự đè nén của những âm giai/ khiến chúng ta quên đi/ trong tận cùng im lặng/ tấu khúc sinh tử luôn bắt đầu/ lộng lẫy/ âm thầm và mãnh liệt/ thổi qua chúng ta/ đánh bạt chúng ta/ những ca từ trôi dạt/ những dòng kẻ hoang nhiên…(Khúc phiêu ca).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm