TIN TỨC

Liệu cần ghi chú với nhiều câu thơ của Phạm Tiến Duật?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-17 08:03:23
mail facebook google pos stwis
905 lượt xem

CHỢT NHỚ VÀ KHÓ QUÊN

TÔ HOÀNG

Đặt bút định viết những dòng dưới đây, tôi có đầy đủ ý thức rằng, thật may mắn, cho đến thập kỷ này, vẫn còn sống cả triệu những chiến sỹ đã từng trực tiếp phục vụ trên tuyến đường Trường Sơn, hoặc có dịp qua lại con đường máu lửa này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Tôi đinh ninh tin rằng những đồng chí, đồng đội, đồng trang lứa của tôi sẽ là những ai thẩm thấu và rung cảm đầy đủ, sâu sắc nhất với từng câu thơ của thi sỹ Trường Sơn này.

Nhưng còn những thế hệ 7X,8X, 9X, khi tiếp xúc với thơ của Phạm Tiến Duật, liệu các em, các cháu có khám phá ra hết, có hiểu đến tận cùng nhiều câu thơ của anh không, khi các em, các cháu hoàn toàn xa lạ với nhiều thực tế chiến tranh, chiến trường?

Đây, tạm dẫn ra vài ví dụ:
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Sao ở rừng già, muỗi bay tay áo lại dài ra? Sự thật đơn giản như thế này: trong rừng, bộ đội, thanh niên xung phong thường vén tay áo sơ mi quân phục lên cao cho tiện công việc. Nhưng vào ngày mưa, hoặc khi tới những khu rừng già, muỗi rất nhiều, tự nhiên chiến sỹ gái, trai buộc phải thả tay áo xuống cho muỗi đỡ đốt. Cái tài tình của Phạm Tiến Duật là nhìn ra trong nét sinh hoạt bình thường đó một điều gì rất thơ, rất đẹp, lại như giàu tính thẩm mỹ.

Đây nữa:
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Ừ thì dưới khe không còn nước bướm bay ra chứ sao? Bạn trẻ có thể bình thản tiếp nhận câu thơ này. Nhưng cánh lính già chúng tôi thì hiểu khác hơn. Vào những ngày mưa rừng tầm tã, suối khe ào ạt nước chẩy thì trong rừng không hề có bướm. Và chỉ khi suối khe cạn nước-tức mùa khô đã tới, những đàn bướm rừng từ đâu mới túa về. Và những cánh bướm nhiều sắc màu cùng mùa khô - với Trường Sơn, với các mảnh đất chiến trường khác - là thời điểm náo nức, chộn rộn, cũng là những tuần, những ngày rạo rực, vui buồn lẫn lộn nhất, nghĩ ngợi nhiều nhất trong một năm, khi lại sắp phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết - tức “thời điểm làm ăn“ khi trận mạc lại sắp bắt đầu...

Hoặc đây nữa:
Mai ngày giã bạn ta về,
Nghe tiếng kẹt cửa, nhớ tre rừng Lào
Bạn trẻ đọc lướt qua, thấy vần điệu vui vui, thuận chiều thế thôi. Nhưng suy ngẫm một tý, chắc bạn sẽ hỏi: Là sao?. Sao đây, tan cuộc chia tay nhau, lại nhớ đến tre của nước Lào? Sự thể là như sau, trên những cung đường Trường Sơn, phía Bắc tỉnh Atôpư, đang đeo nặng, leo dốc cao bằng thang tre, thang giây, có khi đi từ sớm tửng đến tận sập chiều chưa qua hết vài đường bình độ, lính ta bỗng gặp giữa rừng một đoạn đường bằng, cát mịn mát bàn chân, và hai bên đường là những bụi lồ ô, bụi bương, giữa trưa gió hây hẩy thổi, khiến thân bương, thân lồ ô cọ vào nhau phát ra những âm thanh quen thuộc của quê hương buổi nào. Lòng lính lâng lâng, bồi hồi khi nhẩm tính mình đã đi xa làng xóm, xa người yêu từng ấy ngày, từng ấy tháng. Liệu rồi, trong đời mình còn được nghe lại tiếng cót két, cọt kẹt của bụi tre làng nữa hay không đây? Hiểu và nắm bắt được buồn vui ấy của lính, nhà thơ gắng diễn tả qua vần điệu. Và cái lãng mạn, chất thơ của Duật là ở chỗ, ném mọi cảm xúc ấy về phía tương lai, về ngày chiến thắng, khi đã về tới trước cổng hoặc trong mảnh sân nhà, run run đưa tay đẩy cánh cửa liếp, cánh cổng tre, anh lính nghe tiếng cánh cổng, cánh cửa kêu, chợt nhớ tới đoạn đường bằng phẳng, có bóng tre phủ mát rượi trên đoạn đường Trường Sơn qua đất Lào thuở nào.

Liệu tôi có nôm na, mách qué nhũng câu thơ, những bài thơ của Duật không đây? Tùy bạn sành thơ phán xét.

Vẫn xin nêu thêm một ví dụ khác:
Anh lên xe trời đổ cơn mưa,
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ..
Ừ thì trời mưa, nước mưa hắt ào ạt lên tấm kính trước buồng lái, buồng lái sẽ tối lại, nỗi buồn sẽ tràn vào. Và cái gạt nước quạt qua quạt lại, làm giảm bớt bụi nước đi cho buồng lái sáng ra, lòng lính vui lên. Có gì khó hiểu đâu? Ấy thế nhưng ai đã theo các đoàn xe vận tải quân sự vượt qua những tuyến đường khu IV cũ, hoặc đường Trường Sơn đều hiểu rằng, để tránh sự dòm ngó của máy bay trinh sát Mỹ, xe mới, xe cũ chỉ được phép khởi hành vào lúc trời đã sập tối hẳn. Và tuyệt đối không được bật đèn pha, chỉ được bật đèn gầm mà đi trong đêm thôi. Đương nhiên, vào thời khắc ấy, cả trong buồng lái, cả phong cảnh rừng núi hai bên đường chìm ngập trong bóng tối, còn nhìn thấy gì đâu khiến anh lái xe bùi ngùi thương nhớ nữa? Ấy thế, nhưng phá quy định chung, vào những hôm trời đổ mưa lớn, rừng bỗng mau tối, khí núi dâng lên mờ mịt, máy bay địch thưa vắng hẳn, lính ta tranh thủ mới ba, bốn giờ chiều đã cho các “chú tuấn mã“ phóng ra đường. Trong thời khắc, trong điều kiện thời tiết cụ thể ấy tâm trạng buồn nhớ mới nẩy sinh và cái gạt nước mới sắm vai trò của nó.

Này đây:
Cái nhành cây gạt mối riêng tư

Này đây:
Lộp độp cơn mưa bi sắt đuối tầm

Này đây:
Cũng vương tóc rối chân gà
Cũng tiếng chó sủa chiều tà sau cây
Cũng quần áo ướt phơi dây
Cũng gầu múc nước ô hay cũng làng

……

Sinh thời, khi Duật còn sống, bạn bè làm thơ viết văn cùng trang lứa lúc bông phèng  hay khi nghiêm túc thường trêu trọc anh: “Quê cậu ở Phú Thọ, hèn chi thơ cậu nhiều chất xẩm soan bỏ mẹ!“

Đúng và cũng oan cho thi sỹ quá ! 
Bạn hãy đọc lại thơ Trường Sơn của Phạm Tiến Duật đi..Còn rất nhiều những câu, những chữ, những hình tượng không chỉ chứng tỏ tấm lòng và tình yêu của nhà thơ với người lính và chiến công của Trường Sơn. Mà còn là sự am tường, hiểu biết rất cụ thể, rất chi tiết, rất chính xác những gì nhà thơ đã quan sát, đã trải nghiệm trong những năm tháng anh sống trên cung đường nhiều cam go, thử thách này. Hỏi chuyện cặn kẽ, ghi chép tỷ mỉ vốn đã là tác phong của nhà thơ. Điều còn quan trọng hơn nhiều còn là ở chỗ, giữa nơi sự sống và cái chết cách nhau trong gang tấc, Phạm Tiến Duật đã không mảy may so đo, tính toán; đã đủ sự can trường, dũng cảm để sống thực sự cuộc sống của một người lính Trường Sơn.

Liệu có cần đến những hoa thị (*) ghi chú thêm trong những trường hợp như vậy không?

 (Từ cuốn “Nỗi buồn lâu quên” NXB Hội Nhà văn VN -2014)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi lòng Huyền Trân - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Trên đường thiên lý Bắc- Nam, đoạn Quốc lộ 1 giao nhau với Quốc lộ 9 đi về hướng Cửa Việt (tỉnh Quảng Trị), có một bảng chỉ dẫn: “Miếu thờ bà Huyền Trân Công Chúa 500 mét”.
Xem thêm
Thầy tôi - Kho báu của tôi
PGS Chu Xuân Diên thuộc thế hệ những nhà nghiên cứu tiếp thu lý thuyết thế giới qua con đường tiếng Nga và tiếng Pháp. Thầy đã tham gia dịch những công trình kinh điển về folklore học mà đặc biệt phải kể đến bộ sách 2 tập rất dày dặn là Tuyển tập V. Ia. Propp - giới thiệu gần như đầy đủ trước tác của một tác giả quan trọng hàng đầu của trường phái Hình thức Nga và nghiên cứu folklore
Xem thêm
“Cú hattrick” của nhà thơ Triệu Kim Loan
Nhà thơ Triệu Kim Loan sẽ ra mắt độc giả ba quyển sách (hai tập thơ: Khát vọng xanh, Đối thoại đêm và quyển Cảm nhận văn chương)
Xem thêm
Đất có thổ công - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Nhà văn Nguyễn Linh Giang quê quán tỉnh Quảng Trị, sinh sống và làm việc 30 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh năm 2022. Nguyễn Linh Giang vừa xuất bản tập tản văn: “Sông vẫn chảy đời sông” (NXB Thanh niên, 2023). Về tập tản văn này, nhà văn Lê Minh Quốc trong “Tựa” viết cho tập sách đã viết: “Dám nói rằng, con người và vùng đất của mỗi địa phương đều đóng góp cho bộ sử của cả nước đầy đặn hơn, phong phú hơn. Mỗi khi chúng ta nói đến lịch sử một dân tộc là cần hiểu rộng hơn bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán, ẩm thực, v.v… của nhiều vùng đất khác gộp lại. Vì lẽ đó, những quyển sách về đề tài này, bao giờ cũng cần thiết, Nếu khi đọc xong, bạn đọc gật gù, tâm đắc: “À, ước chi có dịp đến nơi ấy một lần nhỉ?”. Được thế. Nhà văn đã thành công. “Sông vẫn chảy đời sông” của Nguyễn Linh Giang là một trong những tập tản văn như thế”.Văn chương TP.Hồ Chí Minh xin giới thiệu tản văn Đất có thổ công được rút từ tập “Sông vẫn chảy đời sông” của nhà văn Nguyễn Linh Giang.
Xem thêm
Em đi tát nước… Tản văn của Nguyễn Linh Giang
Tôi lớn lên, vào những năm sau 1975, ruộng đồng vào mùa khô vẫn phải chống hạn bằng xe đạp nước. Có lần, được ngồi xe đạp nước đêm trăng cùng với cô bạn gái tôi mới biết giọt mồ hôi trên sợi tóc mai cùa cô thôn nữ vừa nghe mằn mặn vừa nồng ngầy ngậy, khó tả. Qua bao mùa trăng, tôi vẫn còn mơ được đi tát nước: “Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh” (Ca dao).
Xem thêm
Dọc thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông – Ký của Thanh Thảo
Năm 1973, khi tôi từ chiến trường Nam Lộ Bốn (Mỹ Tho) trở về lại cơ quan binh vận ở R, tôi rất phấn khởi vì cơ quan tôi đã dời về đất Tây Ninh, đóng căn cứ ở Bến Tháp ngay sát sông Vàm Cỏ Đông. Đoạn sông này là biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia, cũng là thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông. Từ Mỹ Tho, trước khi băng qua đồng Tháp Mười lên chiến khu, chúng tôi đã vượt qua sông Vàm Cỏ Tây, bây giờ lại được ở sát sông Vàm Cỏ Đông, thật thú vị.
Xem thêm
Đỗ Nam Cao - Cô đơn và khắc khoải 
Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng tôi cùng sống và chiến đấu trên chiến trường Miền Đông gian lao mà anh dũng. Nhà thơ Đỗ Nam Cao công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, còn tôi là lính chiến thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Rừng Miền Đông bạt ngàn, bom đạn tàn phá, chất độc hóa học trắng rừng, nhưng chúng tôi thường xuyên gặp nhau qua Đài Phát thanh Giải phóng và chương trình Phát thanh Quân Giải phóng miền Nam. Đôi khi, hành quân giữa khuya, nghe đọc bài hoặc ngâm thơ Đỗ Nam Cao trong chương trình văn nghệ, tiếp sức cho cánh lính trẻ chúng tôi xông lên phía trước.
Xem thêm
Nhà thơ Thanh Thảo… Nghĩ
Bây giờ, khi đã ngấp nghé tuổi tám mươi, tôi mới nhận ra, khi mình càng về già thì thời gian trôi càng nhanh. Và thời gian là thứ mình không thể khắc chế được. Việc hôm nay chớ để ngày mai mới làm, vì có khi không kịp.
Xem thêm
Nghệ sĩ Bảo Anh đang trên đường trở về quê nhà
“Một đám rước”, dường như có những tương đồng với “đám rước” khi thân xác nghệ sĩ Bảo Anh được trở về quê nhà, về U Minh, Cà Mau, nơi chôn nhau cắt rốn của anh.
Xem thêm
Vũ Quần Phương tiết lộ chuyện đặc biệt về Xuân Diệu, Chế Lan Viên
Nhà thơ Vũ Quần Phương nhớ lại ký ức về những nhà thơ, nhà văn lão thành như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Tuân… thế hệ đàn anh – những người đã “lót ổ” cho thế hệ hôm nay dưới mái nhà văn chương.
Xem thêm
Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống rồi mới viết
Trong lớp nhà văn cao tuổi hiện nay, có một người tôi luôn chờ đợi đọc những sáng tác mới của ông. Đó là nhà văn Ma Văn Kháng (sinh năm 1936, tên thật Đinh Trọng Đoàn). Chỉ có điều thời gian gần đây tuổi cao đã khiến ông không viết đều, viết nhiều như trước. Thế nhưng, thi thoảng vẫn được đọc những truyện ngắn mới của ông, hay những bài báo gửi gắm trăn trở, suy tư.
Xem thêm
Cuộc chiến nhân tính – Tiểu luận của Hoàng Thuỵ Anh
Nhà văn Hữu Phương là một trong số những cây bút văn xuôi kỳ cựu của miền Trung, đã khẳng định sở trường, sự điêu luyện khi nhìn sâu và cắt nghĩa tính tàn bạo của chiến tranh thông qua những số phận bị chấn thương, bi kịch.
Xem thêm
Nhớ mãi kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Quốc Trung
Qua các nguồn tin, được biết Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và Tạp chí Văn nghệ Quân đội chuẩn bị phối hợp tổ chức hoạt động tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung sau 2 năm anh rời “cõi tạm” và nhân sự kiện anh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước với tiểu thuyết Đất không đổi màu, tôi cảm thấy vui mừng xen lẫn sự bồi hồi, xao xuyến.
Xem thêm
Tàn thu vắng bóng - Tản văn của Đặng Tường Vy
 Châu Âu thật tuyệt với bốn mùa rõ rệt. Mùa nào cũng có nét quyến rũ riêng, làm người tha hương vơi đi nỗi buồn dịu vợi. ..
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Quốc Trung
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM gọi điện thông báo với tôi về việc Hội nhà văn TP HCM phối hợp cùng Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung nhân hai năm ông rời cõi tạm và đặc biệt nhà văn được truy tặng giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết Đất không đổi màu.
Xem thêm
Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao – Tản văn của Lê Xuân
Tháng Tám cũng là tháng giữa thu, tháng để các em thiếu niên, nhi đồng phá cỗ trông Trăng, mừng Tết Trung thu, rước đèn, múa lân dưới trăng thanh, gió mát…
Xem thêm
Cửa bể Cần Giờ | Bút ký của Nguyễn Minh Ngọc
Bài đăng Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN) số 35+36, ra ngày 2-9-2023
Xem thêm
Tản Mạn Vàm Cỏ Đông - Tùy bút Trần Thế Tuyển 
Có lẽ trên trái đất này, không ở đâu cái giá để có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc lại đắt như ở Việt Nam. Để có hình hài đất nước, vị thế quốc gia như ngày hôm nay đã có hàng triệu triệu người con ưu tú ngã xuống. Máu xương của họ tan biến thành đất đai tổ quốc và hồn của họ bay lên hóa linh khí quốc gia.
Xem thêm