TIN TỨC

Liệu cần ghi chú với nhiều câu thơ của Phạm Tiến Duật?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-17 08:02:33
mail facebook google pos stwis
2389 lượt xem

CHỢT NHỚ VÀ KHÓ QUÊN

TÔ HOÀNG

Đặt bút định viết những dòng dưới đây, tôi có đầy đủ ý thức rằng, thật may mắn, cho đến thập kỷ này, vẫn còn sống cả triệu những chiến sỹ đã từng trực tiếp phục vụ trên tuyến đường Trường Sơn, hoặc có dịp qua lại con đường máu lửa này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Tôi đinh ninh tin rằng những đồng chí, đồng đội, đồng trang lứa của tôi sẽ là những ai thẩm thấu và rung cảm đầy đủ, sâu sắc nhất với từng câu thơ của thi sỹ Trường Sơn này.

Nhưng còn những thế hệ 7X,8X, 9X, khi tiếp xúc với thơ của Phạm Tiến Duật, liệu các em, các cháu có khám phá ra hết, có hiểu đến tận cùng nhiều câu thơ của anh không, khi các em, các cháu hoàn toàn xa lạ với nhiều thực tế chiến tranh, chiến trường?

Đây, tạm dẫn ra vài ví dụ:
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Sao ở rừng già, muỗi bay tay áo lại dài ra? Sự thật đơn giản như thế này: trong rừng, bộ đội, thanh niên xung phong thường vén tay áo sơ mi quân phục lên cao cho tiện công việc. Nhưng vào ngày mưa, hoặc khi tới những khu rừng già, muỗi rất nhiều, tự nhiên chiến sỹ gái, trai buộc phải thả tay áo xuống cho muỗi đỡ đốt. Cái tài tình của Phạm Tiến Duật là nhìn ra trong nét sinh hoạt bình thường đó một điều gì rất thơ, rất đẹp, lại như giàu tính thẩm mỹ.

Đây nữa:
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Ừ thì dưới khe không còn nước bướm bay ra chứ sao? Bạn trẻ có thể bình thản tiếp nhận câu thơ này. Nhưng cánh lính già chúng tôi thì hiểu khác hơn. Vào những ngày mưa rừng tầm tã, suối khe ào ạt nước chẩy thì trong rừng không hề có bướm. Và chỉ khi suối khe cạn nước-tức mùa khô đã tới, những đàn bướm rừng từ đâu mới túa về. Và những cánh bướm nhiều sắc màu cùng mùa khô - với Trường Sơn, với các mảnh đất chiến trường khác - là thời điểm náo nức, chộn rộn, cũng là những tuần, những ngày rạo rực, vui buồn lẫn lộn nhất, nghĩ ngợi nhiều nhất trong một năm, khi lại sắp phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết - tức “thời điểm làm ăn“ khi trận mạc lại sắp bắt đầu...

Hoặc đây nữa:
Mai ngày giã bạn ta về,
Nghe tiếng kẹt cửa, nhớ tre rừng Lào
Bạn trẻ đọc lướt qua, thấy vần điệu vui vui, thuận chiều thế thôi. Nhưng suy ngẫm một tý, chắc bạn sẽ hỏi: Là sao?. Sao đây, tan cuộc chia tay nhau, lại nhớ đến tre của nước Lào? Sự thể là như sau, trên những cung đường Trường Sơn, phía Bắc tỉnh Atôpư, đang đeo nặng, leo dốc cao bằng thang tre, thang giây, có khi đi từ sớm tửng đến tận sập chiều chưa qua hết vài đường bình độ, lính ta bỗng gặp giữa rừng một đoạn đường bằng, cát mịn mát bàn chân, và hai bên đường là những bụi lồ ô, bụi bương, giữa trưa gió hây hẩy thổi, khiến thân bương, thân lồ ô cọ vào nhau phát ra những âm thanh quen thuộc của quê hương buổi nào. Lòng lính lâng lâng, bồi hồi khi nhẩm tính mình đã đi xa làng xóm, xa người yêu từng ấy ngày, từng ấy tháng. Liệu rồi, trong đời mình còn được nghe lại tiếng cót két, cọt kẹt của bụi tre làng nữa hay không đây? Hiểu và nắm bắt được buồn vui ấy của lính, nhà thơ gắng diễn tả qua vần điệu. Và cái lãng mạn, chất thơ của Duật là ở chỗ, ném mọi cảm xúc ấy về phía tương lai, về ngày chiến thắng, khi đã về tới trước cổng hoặc trong mảnh sân nhà, run run đưa tay đẩy cánh cửa liếp, cánh cổng tre, anh lính nghe tiếng cánh cổng, cánh cửa kêu, chợt nhớ tới đoạn đường bằng phẳng, có bóng tre phủ mát rượi trên đoạn đường Trường Sơn qua đất Lào thuở nào.

Liệu tôi có nôm na, mách qué nhũng câu thơ, những bài thơ của Duật không đây? Tùy bạn sành thơ phán xét.

Vẫn xin nêu thêm một ví dụ khác:
Anh lên xe trời đổ cơn mưa,
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ..
Ừ thì trời mưa, nước mưa hắt ào ạt lên tấm kính trước buồng lái, buồng lái sẽ tối lại, nỗi buồn sẽ tràn vào. Và cái gạt nước quạt qua quạt lại, làm giảm bớt bụi nước đi cho buồng lái sáng ra, lòng lính vui lên. Có gì khó hiểu đâu? Ấy thế nhưng ai đã theo các đoàn xe vận tải quân sự vượt qua những tuyến đường khu IV cũ, hoặc đường Trường Sơn đều hiểu rằng, để tránh sự dòm ngó của máy bay trinh sát Mỹ, xe mới, xe cũ chỉ được phép khởi hành vào lúc trời đã sập tối hẳn. Và tuyệt đối không được bật đèn pha, chỉ được bật đèn gầm mà đi trong đêm thôi. Đương nhiên, vào thời khắc ấy, cả trong buồng lái, cả phong cảnh rừng núi hai bên đường chìm ngập trong bóng tối, còn nhìn thấy gì đâu khiến anh lái xe bùi ngùi thương nhớ nữa? Ấy thế, nhưng phá quy định chung, vào những hôm trời đổ mưa lớn, rừng bỗng mau tối, khí núi dâng lên mờ mịt, máy bay địch thưa vắng hẳn, lính ta tranh thủ mới ba, bốn giờ chiều đã cho các “chú tuấn mã“ phóng ra đường. Trong thời khắc, trong điều kiện thời tiết cụ thể ấy tâm trạng buồn nhớ mới nẩy sinh và cái gạt nước mới sắm vai trò của nó.

Này đây:
Cái nhành cây gạt mối riêng tư

Này đây:
Lộp độp cơn mưa bi sắt đuối tầm

Này đây:
Cũng vương tóc rối chân gà
Cũng tiếng chó sủa chiều tà sau cây
Cũng quần áo ướt phơi dây
Cũng gầu múc nước ô hay cũng làng

……

Sinh thời, khi Duật còn sống, bạn bè làm thơ viết văn cùng trang lứa lúc bông phèng  hay khi nghiêm túc thường trêu trọc anh: “Quê cậu ở Phú Thọ, hèn chi thơ cậu nhiều chất xẩm soan bỏ mẹ!“

Đúng và cũng oan cho thi sỹ quá ! 
Bạn hãy đọc lại thơ Trường Sơn của Phạm Tiến Duật đi..Còn rất nhiều những câu, những chữ, những hình tượng không chỉ chứng tỏ tấm lòng và tình yêu của nhà thơ với người lính và chiến công của Trường Sơn. Mà còn là sự am tường, hiểu biết rất cụ thể, rất chi tiết, rất chính xác những gì nhà thơ đã quan sát, đã trải nghiệm trong những năm tháng anh sống trên cung đường nhiều cam go, thử thách này. Hỏi chuyện cặn kẽ, ghi chép tỷ mỉ vốn đã là tác phong của nhà thơ. Điều còn quan trọng hơn nhiều còn là ở chỗ, giữa nơi sự sống và cái chết cách nhau trong gang tấc, Phạm Tiến Duật đã không mảy may so đo, tính toán; đã đủ sự can trường, dũng cảm để sống thực sự cuộc sống của một người lính Trường Sơn.

Liệu có cần đến những hoa thị (*) ghi chú thêm trong những trường hợp như vậy không?

 (Từ cuốn “Nỗi buồn lâu quên” NXB Hội Nhà văn VN -2014)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm
Trở lại xứ sở Chùa Vàng
Ba thập kỷ sau, tôi trở lại Thái Lan không chỉ với tư cách du khách, mà còn là người kết nối văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Thái, vốn có nhiều “mẫu số chung” về phong tục, tập quán và tôn giáo.
Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm