TIN TỨC

Lục bát thiền trong miền đồng điệu và đồng cảm thi ca

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-01-19 12:03:02
mail facebook google pos stwis
481 lượt xem

Lục bát thiền là nét đặc trưng cơ bản được tác giả Trần Lê Khánh chắt chiu thể hiện qua tập thơ ‘Đồng’ do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành.

Nhà thơ Trần Lê Khánh

Lục bát thiền dẫn dắt cả người viết lẫn người đọc vào những chiêm nghiệm nhẹ nhàng và sâu lắng. Vì vậy, lục bát thiền với hai thành tố “lục bát” và “thiền” cần sự suy tư và kết nối chặt chẽ. Nói cách khác, đó là phép cộng giữa đồng điệu và đồng cảm

Tập thơ “Đồng” của tác giả Trần Lê Khánh là một đường biên dài vo tròn lại của hành trình khai phá một hướng thơ ngắn gọn, gãy gập, xúc tích mà ông đã dày công thực hiện lần lượt qua các thi tập trước, bao gồm “Lục bát Múa”, “Dòng sông không vội”, “Ngày như chiếc lá”, “Giọt nắng tràn ly”, “Xứ - rung một ngọn mây” và “Ngàn bài thơ khác” (được trao giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022).

Nếu đặt tập thơ “Đồng” trong sự tương quan của các tập thơ trước đó, tôi mường tượng ra hướng đi của nhà thơ, hẳn là đã rất dày công để khai mở và bảo vệ nó khỏi sự tác động của các thể, loại, bài thơ cùng hơi hướng khai thác của các thi nhân khác. Tôi dùng từ dày công vì tính đến nay thì “Đồng” là thi tập thứ 8 của Trần Lê Khánh, cả 8 tập thơ đều theo một con đường độc đạo duy nhất là: Ngắn. Dù là ngắn nhưng đủ, đủ trải cho tâm tư mình, đủ gợi cho người đọc và đủ chiêm nghiệm cho con chữ ông viết.

Xưa nay, điều đầu tiên thơ mang là tâm tư của nhà thơ, Trần Lê Khánh không ngoại lệ. Ở tập thơ “Đồng” cũng nhiều âu lo, nhiều tâm thức của ông phả vào câu chữ “nghe quen tiếng dế bao đời/ như cành củi mục tự rơi một phần” (Xứ 100). Có lẽ, đâu đó trong hành trình thơ, hành trình sống của mình, có lúc ông bế tắc, loay hoay tự hỏi lòng trên con đường vời vợi của thi ca. Và trong những đêm tối thừa mứa buồn bã ấy, ông giãi bày “ta đùn con chữ ra xa/ trên trang giấy trắng tay ta nằm buồn/ hoàng hôn trở dạ ven đường/ sinh ra gã ngốc trần truồng tâm can” (Xứ 16).

Lục bát là thể thơ rất dễ làm nhưng khó hay, dễ làm vì vần điệu của nó nhưng nếu sa vào vần điệu sẽ gò ép câu chữ, làm câu thơ đọc lên rất suông nhưng ít hoặc gượng nghĩa sẽ gần với ca dao, hò, vè hơn. Có người từng ví làm thơ lục bát như đi trên lưỡi dao lam, không khéo sẽ đứt ngay, nghĩ cũng có lý.

Ngoài sự dụng chữ đáp ứng yêu cầu vần điệu của quy định thể loại, người làm thơ lục bát còn phải có sự kiên định và sáng tạo riêng biệt  trong mỗi ý, mỗi câu. Bởi lẽ, tiền nhân người Việt đã mòn chân trong khu vườn lục bát. Viết lục bát, mà lại theo đuổi lục bát thiền, đôi khi cũng là một sự liều lĩnh của người làm thơ.

Tập thơ “Đồng” của Trần Lê Khánh có tất cả 10 chương, gồm 100 bài lục bát vừa vặn nhưng không khó để khẳng định lục bát của Trần Lê Khánh là lục bát mới. Thơ ông mới trong cách nghĩ, cách triển khai, như việc ông tìm thấy ánh sáng của cuộc sống mình “trong ngôi đền của loài người/ một đốm lửa nhỏ bằng mười đêm trăng” (Xứ 13) hoặc “con cá đục thủng mặt hồ/ giấc mơ người mỏng như tờ giấy lanh” (Xứ 99).

Tập thơ "Đồng" do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành.

Cái mới của tập thơ “Đồng” không chỉ ở ý tứ, mà dường như nó còn được tiếp sức qua kinh kệ, qua sự thong thả mang hơi hướng thiền. Đọc qua 100 bài thơ,  không khó bắt gặp những quang cảnh nhuốm màu thiền “nhà sư sửa lại hình hài/ ánh đèn sờ rớ lên vài chỗ quen” (Xứ 98) “bức tượng đã lớn trong chùa/ người loay hoay đặt cho vừa bóng trăng” (Xứ 20) hoặc “ngôi chùa leo đến lưng đồi/ thì nằm đó thở cùng tôi kiếp nào” (Xứ 74)

Tác giả Trần Lê Khánh đã làm thơ như dụng đạo. Tất cả bài thơ đọc xong, dù nặng nề hay trăn trở đến cuối cùng đều trôi qua nhẹ nhàng, như áng mây lửng lờ, nắng chiều về núi. Trong miên man lục bát thiền của ông, có bài thơ “Xứ 71” đã đọng lại tôi sau khi đọc. Thiền đó, đạo đó và cũng yêu thương đó, đời thường đó và trăn trở để tha thứ: “người về khoác chiếc áo tu/ mảnh vải quệt đất như mù đường xa/ chiều đã nhập vào cánh hoa/ và em chỉ ngắt đời ta một lần/ người khất sĩ bỗng dừng chân/ có kẻ quỳ xuống xin dâng tiếng cười/ kiếp này rồi kiếp nữa thôi/ là hết quá khứ của mười ngón tay”

Chủ đích viết lục bát thiền, nên thơ Trần Lê Khánh không quá xù xì. Dù có đặt vào một vấn đề nhân sinh hay triết lý, chữ nghĩa cũng đưa ra rất tự nhiên kết hợp ngôn ngữ đời thường. Chính vì sự kết hợp này, người đọc chiêm nghiệm về thi ca như một cơ hữu của hơi thở hàng ngày “sông còn giữ sóng nổi không/ bàn tay ta vỗ lên dòng nước xanh” (Xứ 08).

TRẦN ĐỨC TÍN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm