TIN TỨC

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng soi vào từng con mắt lánh đen

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-03-30 19:02:23
mail facebook google pos stwis
1459 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng (1959-2021) để lại không nhiều tác phẩm. Khi nhà thơ Đoàn Vị Thượng giằng co những ngày cuối cùng với cơn bạo bệnh, thì người thân đã gom góp in “Thơ Đoàn Vị Thượng” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành cuối năm 2020. Và bây giờ, kỷ niệm 1 năm nhà thơ Đoàn Vị Thượng rời khỏi dương gian, “Thơ tình và những bài áo trắng” tiếp tục được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, để công chúng có dịp thương nhớ nhà thơ Đoàn Vị Thượng.


Nhà thơ Đoàn Vị Thượng qua nét vẽ Lê Sa Long.

Cộng gộp hai tập “Thơ Đoàn Vị Thượng” với “Thơ tình và những bài áo trắng”, được hơn 150 bài thơ, liệu đã quy tụ đầy đủ những gì nhà thơ Đoàn Vị Thượng sáng tác suốt 62 năm trên cõi người chưa? Có lẽ đã tương đối. Bởi lẽ, nhà thơ Đoàn Vị Thượng viết khá ít, và cũng không có mưu cầu giục giã bản thân phải chạy đua số lượng tác phẩm. Đối với nhà thơ Đoàn Vị Thượng, thi ca không có ý nghĩa vang danh lập dạng, mà giống như một phương tiện đồng hành: “Tôi còn trong túi bài thơ/ Đem ra nhầm với giấy tờ tùy thân”.


Tập “Thơ tình và những bài áo trắng” của Đoàn Vị Thượng.

Năm 1976, nhà thơ Đoàn Vị Thượng ở tuổi 17 viết bài “Lời trăng xanh” có hai câu ấn tượng “Em giấu thân trong áo/ Tôi nghe buồn gương soi”. Đó là chỉ dấu của một tài thơ. Nếu anh tiếp tục đau đáu chìm đắm với mạch nguồn trắc ẩn ấy, chắc chắn sẽ thành một sự nghiệp tầm cỡ. Thế nhưng, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nhà thơ Đoàn Vị Thượng chọn nghề sư phạm rồi đi làm báo. Thơ cư ngụ trong lòng anh như một sự nương tựa, thỉnh thoảng mới xuất hiện thành văn bản. Có lẽ chính nhà thơ Đoàn Vị Thượng cũng cảm thấy tiếc nuối những ngày tháng ít nhẫn nại và ít quyết liệt với thơ, nên anh viết bài “Lá” vào năm 2010 đầy tâm trạng: “Tôi năm mươi tuổi cũng đành/ Ngồi ôm chiếc lá mơ xanh lại mình”.

Thời thanh xuân, nhà thơ Đoàn Vị Thượng từng hồ hởi: “Với những hy vọng của tôi, tôi không giữ trong lòng/ Tôi ao ước được chia đều tất cả/ Và cũng muốn được nhận nhiều hơn thế/ Tôi tắm mình trong bầu bạn anh em”. Và anh đã có khoảng một thập niên dạt dào vần điệu. Với thái độ gượng nhẹ những xung khắc và những bất hòa xung quanh, nên thơ Đoàn Vị Thượng không mạnh về ngổn ngang thế sự, về triết lý nhân sinh, về sạt lở đạo đức. Thơ Đoàn Vị Thượng chọn cách “đi theo áo trắng” để đứng gần những tình cảm trong trẻo: “Anh đi dò lại mười năm trước/ Dù vắng quanh đây bóng bạn bè/ Khi bị những oán thù vây rượt/ Anh nhờ áo trắng dịu dàng che”.

Cốt cách nhà giáo, giúp anh có được những câu thơ mượt mà về khung trời mơ mộng “Cho anh theo với/ Sáng nay tựu trường/ Ai còn đi học/ Đời còn dễ thương”. Đoàn Vị Thượng thong dong trở thành một nhà thơ trìu mến của lứa tuổi học sinh – sinh viên, khi “Còn một chút hương bay” bãng lãng “Chân đi từng bước khẽ khàng/ Nắng sao rộn rã ngập vàng lối em/ Guốc đừng khua rộn cả lên/ Sợ ai ngồi sẵn bên thềm đợi nghe”, khi “Gởi người thích nhặt lá” bâng khuâng “Giá như chiếc lá là bài thơ/ Mỗi buổi ra chơi rụng một tờ/ Em cứ nhặt lên và giữ lấy/ Hiểu cả một mùa tôi ngẩn ngơ” và khi “Áo trắng em về” xao xác: “Áo trắng em về hoài không/ Sao bỗng chiều nay thiếu vắng/ Giữa bao màu sắc đám đông/ Tôi nghe bước mình nằng nặng”.

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng có một kiểu dẫn dắt chữ nghĩa mềm mại để làm lưu luyến những tâm hồn bay bổng. Một lần “Trước cổng trường con gái”, anh u hoài “Phong thư cũ niêm mối tình thơ dại/ Tay tôi cầm muốn gỡ ngại tơ vương”, nhưng anh vẫn nhận ra “Đám mây điệu đàng” đáng rộn ràng “Đám mây áo trắng điệu đàng/ Đánh rơi nhan sắc đã tan về trời”.

Viết những câu trầm tư thì nhà thơ Đoàn Vị Thượng bị ảnh hưởng ít nhiều ca từ Trịnh Công Sơn. Còn viết những câu tưng tửng thì nhà thơ Đoàn Vị Thượng lại có nguy cơ lạc vào chất giọng bụi bặm của nhà thơ Bùi Chí Vinh. Mừng thay, trong vệt thơ tưng tửng “Em còn áo trắng hay không/ Cuối năm nhiều đám cưới, lòng anh lo”, nhà thơ Đoàn Vị Thượng có bài “Trước dự định lấy chồng của Nguyên” mang phong cách riêng mình, từ nỗi hốt hoảng “Hơn ba trăm bài thơ phục vụ/ Báo chí ơi! Hãy giúp đỡ lại tôi/ Trước dự định của Nguyên đáng sợ/ Mau tuyên truyền chống lại đi thôi” đến niềm hân hoan “Cả loài người đến xếp hàng ngay/ Diễu hành trước nhà Nguyên bất tận/ Nguyên sẽ ra sân nhìn cảm động/ Giống như nàng công chúa ngày xưa/ Để bất ngờ khi ấy trời mưa/ Bởi tất thảy loài người đều khóc/ Lịch sử sẽ ghi lần thứ nhất/ Cuộc Biểu Tình Nước Mắt phải không/ Khi Nguyên thôi dự định lấy chồng/ Cũng là lúc anh dự trù lấy vợ”.

Ở mảng thơ tình, nhà thơ Đoàn Vị Thượng có thói quen dùng diễn ngôn để bày tỏ những giăng mắc. Giữa những dòng rối rít phân bua và kể lể, nhà thơ Đoàn Vị Thượng cũng kịp lưu lại dăm khoảnh khắc “Gương trong mắt” bồi hồi “Tôi đếm lại đời mình thử cả chục gương/ Vẫn không tránh có một ngày tan vỡ/ Những ánh mắt gắn lông nheo tạm bợ/ Đã vội rơi sau cái chớp tỏ tình”. Anh biết trân trọng lặng lẽ “Hẹn em, tôi đợi lâu rồi/ Kim đồng hồ nhích cả đời tôi theo/ Tôi đâu tiếc một lần yêu/ Tiếc điều hò hẹn là điều vu vơ/ Lòng này khi bớt ngây thơ/ Làm sao chuộc lại những giờ đã qua”, anh biết trách móc vu vơ “Em cười nói như là chim hót/ Thiên nhiên là một chiếc lồng trời/ Sao tôi dại dột đi giăng bẫy/ Rượt bắt em hoài đến hụt hơi” và anh biết an ủi âm thầm “Bỗng nhớ lại mọi điều sao giản dị/ Tôi như em vụng dại đến đau lòng/ Chỉ cần một trong hai người biết nghĩ/ Lúc bấy giờ ta dễ mất nhau không?”.

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng thường xuyên sử dụng thể loại lục bát, phù hợp với cá tính ân cần và khoan dung của anh, kể cả lúc “Tìm em” sốt ruột “Tôi tìm em khắp người ta/ Tìm em lẫn lộn quỷ ma thánh thần/ Tìm em từ độ thanh tân/ Tìm em mê mải vong thân chính mình” hoặc lúc ngơ ngác “Ngã ba, hai người” chơi vơi: “Tưởng đi cuối đất cùng trời/ Đến đây bỗng mở ra lời chia tay/ Ngã ba khắc nghiệt phơi bày/ Còn đâu bóng mát hàng cây ban đầu”. Tuy nhiên, khi anh dùng thể loại thơ ngắn thì giá trị thẩm mỹ rõ nét hơn “Thương con chim mới/ Hót mãi bên hè/ Gã tình nhân mới/ Biết gì mà nghe” (bài “Chim kêu bên nhà người cũ”).

Phần lớn, thơ tình đều vận hành trong hoang mang của trái tim đau khổ. Riêng nhà thơ Đoàn Vị Thượng lại có được những bài thơ tình ấm áp, mà xuôi chuỗi lại thì có thể hình dung một cuộc tình viên mãn. Từ lúc hạnh ngộ “Đôi mắt ai mơ mộng/ Bên cửa một ngôi nhà/ Đâu ngờ như bể rộng/ Tôi đi hoài không qua” đến lúc phải lòng “Cây cao lên chút cho trời xuống/ Hồi hộp, kìa em hát thầm thì/ Điệu hát tháng Giêng hai người hiểu”. Từ lúc “Cầm tay” hẹn hò “Phải đâu tay nắm bình thường/ Khi nào hờn dỗi thì buông dễ dàng/ Khó là ta dắt nhau sang/ Phía bên kia mỗi gian nan đời mình”, đến “Một hôm nằm cạnh bên người” hồi hộp “Làm ơn ôm lấy anh lâu/ Để anh đừng thấy bể dâu bên ngoài/ Làm ơn ôm giữ anh hoài/ Để anh che tiếng thở dài bên trong” và lúc “Mời rượu trăm năm” thề nguyện duyên kiếp ba sinh “Mời em uống cạn chén tình/ Có cay ngọt có nhục vinh dài dài/ Có ngày lạnh nhạt chia hai/ Có đêm nhập một mệt nhoài bên nhau/ Mời em uống trước dè sau/ Hai ta liệu sức qua cầu ngày mai”.

Cuộc sống đời thường không thích chen lấn, không ưa tranh cãi của nhà thơ Đoàn Vị Thượng đã chi phối cống hiến đời thơ của anh lắm hao hụt, lắm thiệt thòi và lắm nuối tiếc. Tuy nhiên, với những gì để lại, dẫu khiêm tốn thì nhà thơ Đoàn Vị Thượng cũng có một vị trí trong lòng bạn đọc thật an lành: “Tôi soi vào từng con mắt lánh đen/ Từng con mắt, từng tấm gương thần thoại/ Tôi thấy tôi đời hơn, tôi thấy tôi trẻ lại/ Tôi thấy tôi biến hóa trăm lần/ Tham dự vào vô số cuộc hôn nhân/ Của đời sống, của tình yêu nhân loại” (bài “Mắt hồng nhan”).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Phê bình như là tự truyện – Tiểu luận của Hoàng Đăng Khoa
Tín niệm phê bình văn học cũng là một dạng tự truyện rất gần với tinh thần của các phương pháp phê bình hiện đại như phê bình hiện tượng học, diễn ngôn học văn chương, hay mĩ học tiếp nhận – nơi chủ thể đọc/viết luôn hiện diện trong chính thao tác diễn giải văn bản. Dù vô tình hay hữu ý, mỗi bài phê bình đều là một “tấm gương một chiều” phản chiếu cái tôi nội cảm, cái chủ kiến, thiên kiến của người viết. Qua văn bản phê bình, người ta không chỉ thấy một hiện tượng văn học được phê bình, mà còn thấy cả một con người – đang thực hành sống, đọc, suy tư, tìm gặp tha nhân và bản thể.
Xem thêm
Đọc thơ của một luật sư
Tôi đã được đọc tập thơ đầu tay của Thái Hưng với cái tên rất thơ: ĐI QUA MÙA THU - Nxb Hội Nhà văn 2024; Rồi một số bài in chung trong tập: Bằng lăng tím lối Mễ Trì cùng với nhiều tác giả khác, lại đôi khi thấy thơ anh trên báo, chí, đậm nhất là tờ Thời báo Văn học nghệ thuật giới thiệu chân dung tác giả. Đọc qua, chợt có cảm nhận nhẹ nhàng, song ngẫm ngợi, thấy chất nhân tình thấm đẫm, cuốn hút. Chắc chắn phải là giọng của người đã từng đi qua nhiều mùa thu xao xác lá...
Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm