TIN TỨC

“Sợi tình tơ nghĩa” trong “Ký họa thơ”

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2024-10-10 12:40:51
mail facebook google pos stwis
1340 lượt xem

TUẤN TRẦN

Thơ lồng trong thơ. Đời đằm trong thơ. Nhà thơ ngậm ngùi ngồi trong thơ hay cái đẹp tôn vinh cái đẹp. Dùng thơ vẽ “hồn thơ”. Dùng thơ vẽ “đời thơ”. Dùng thơ vẽ số phận của nhà thơ cho “nên thơ”. Tất cả từ thứ thơ sinh ra để hết mình cho việc tri ân thơ và “hồn thơ” đó là “KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC” của một “LẶNG THẦM HOA QUÊ”

Con người Nguyên Hùng trước hết với tôi là một nhà thơ thuần lành, thuần khiết và thuần giãn. Thơ Nguyên Hùng trước hết với tôi là “ngõ nhỏ quê mùa” luôn rộng mở đón khách, những vị khách với bước chân vô tình. Ngõ nhỏ đủ lặng lẽ cho những nhịp đời đã “mỏi gối chùn chân”. Tôi tìm đến thơ anh trong những vần thơ mộc mạc đời thường. Con người anh cũng như loài “hoa khoai” ấy: mong manh, nhàu nhĩ, phơn phớt tím. Vì áp vía mặt đất nên hương cũng chỉ vậy thôi: mùi hương thôn, mùi đất nghèo, rất khiêm nhường mà rất kiên cường: “Thương quê mình đồng khô gió mặn/ Thương hoa khoai tím trắng dịu dàng” (Lặng thầm hoa quê). Bối cảnh cuộc sống với tốc độ sống bức bối, gấp gáp, người ta đói những kết nối với sự an ủi bình yên. Chính vì thế mà thơ Nguyên Hùng đã trở thành “Trăm khúc hát một chữ duyên”. Cái quê mùa đó đã cất cánh bay lên như tiếng sáo mục đồng gọi lại thời gian hoài cựu êm thấm, ôn nhu, từ ái…


Ảnh: Kiều Bích Hậu

Những khúc hát nghĩa nặng tình sâu sẽ còn đó, đồng vọng tha thiết, vuốt dịu không khí nhức nhối của đổi chác mưu sinh hôm nay. Ta đã gặp hồn thơ anh ở một vai trò khác, vị trí khác, ở một giá trị thẩm mỹ và nhân văn khác: cái giao hảo người- người trìu mến, thân thương. Cái đối xử với mình nhẫn nại, cân nhắc: Bền lòng, khoan thư, dung thông cởi mở, dịu ngọt với đời sống.

Chính cái nhìn “trung hòa” và hồn thơ “chân ngã lương thiện” đã “hữu ý” kết nối anh với những hồn thơ khác và đứa con tinh thần KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC) đã ra đời “đúng người và đúng thời điểm”. Cái ngoái nhìn này, ánh mắt “huệ nhãn” của tác giả đã lặng thầm nói lời cảm tạ. Đôi đồng tử lấp lánh sự sống tri ân và hàng mi hơi cụp xuống đó đã thể hiện ánh nhìn hoài cảm cho nỗi lòng kẻ đi gieo chữ, cày mây trên trời và gieo trồng muôn dặm sao. Nhân sĩ đời nào chẳng tự làm đau mình để thấu hiểu sâu cay nỗi đau của đời…

 Bằng tất cả những gì đẹp đẽ nhất trong lòng lành thiện hạnh nhà thơ đã tung tẩy “nét cọ” của mình tạc vẽ những gương mặt Nghệ sĩ thi ca với độ trong đẹp nhất nơi tâm hồn của họ và cuộc đời thẩm mỹ đa mang, chói gắt, nhạo báng, máu tươi, nước mắt gặp gỡ giữa hai hàng lệ tuôn khi đi qua chìm nổi thế thái nhân tình. 81 gương mặt nhân sĩ đều “hữu duyên hạnh ngộ”, “ngẫu nhiên tương phùng” giữa bể người mênh mông và không ngại xem nhau là tri kỉ. Sở dĩ tôi cảm- tưởng như thế vì tôi hiểu cái hồn cốt dân dã “quê mùa” thì lấy đâu ra rắc tâm lựa lọc, mưu tính, sắp đặt. Nhưng một điều cao hơn tất cả đó là 81 chân dung được “khắc [khoải]” đều gặp gỡ anh hồn thơ của chủ thể trữ tình ở sự hết mình cho nghệ thuật, đã mất mát vì nghệ thuật, đã dành cả một đời lao động thơ ca như cách “móc tim mình ra cho quạ rỉa”. Hiến tặng linh hồn mình cho loài “ác điểu” hi vọng nó “dung thứ” cho cuộc đời: “Để nửa đời mình anh trong một thế giới”. (Kí họa chân dung “Trần Mạnh Hảo”, Tr. 56). Như lá vàng rụng đơn độc vẫn tiếp tục nâng níu bước chân đời bằng những con đường mùa thu êm ả. Và dĩ nhiên khi đã “phụng hiến vô tư” bất chấp “rỉ máu” nghĩa là họ có tên trên chiếu thơ đương đại với những vị trí cao đạo nhất. Như “con thuyền chở đạo nặng tình non sông” (Kí họa chân dung “Bảo Định Giang”, tr. 48)

Để nói về cuốn KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC) của tác giả Nguyên Hùng tôi xin “khảm bạc” trong mấy chữ và chỉ cần ngần nấy thôi là đủ: “VƯƠN TỚI CÁI ĐẸP THUẦN KHIẾT”. Bởi vì “lá rụng về cội”, họ đi từ làng, bờ tre mái rạ, từ đồng xanh, lũy tre, hương sen bát ngát. Thì họ cũng sẽ về nơi đó nơi “thuần khiết” và chìm vào mênh mông lòng mẹ để “giọt máu dân gian tái sinh”: Tái sinh trong lục bát với lối kể về đời và thơ tâm tình, nhẹ nhàng, sâu lắng mà lại phơi ra đó “đời du ca” ngất ngưởng nhưng đầy sĩ khí.

81 bông hoa hồn hậu quê nhà và rời làng âm thầm như cơn bão: Kẻ ra trận, người lạc nẻo. Người đã về với tiên thiên, ai đó ở lại vẫn đắng đót tìm “trầm” thơ.  Những văn nhân và nhạc sĩ được tuyển lựa để kí họa là những tác giả đã tạo ra những định hướng cho nền Văn học Việt Nam hiện đại. Dùng thơ để giới thiệu về “gương mặt” (phong cách) thơ, văn, nhạc của các nghệ sĩ chắc hẳn tác giả Nguyên Hùng đã phải tỉ mẩn và tế vi để gia công. Muốn làm được điều đó trước hết phải có “lòng”. Tấm lòng của “viên quản ngục” (Chữ người tử tù _ Nguyễn Tuân). Tấm lòng thiên hạ, yêu cái đẹp, nguyện hiến cho cái đẹp và “phủ phục” để có được cái đẹp.

Thế nhưng mang “tấm lòng viên quan coi ngục” mới chỉ là một góc để cho cuốn “Kí họa thơ” ra đời. Điều quan trọng là cái nhìn hệ thống, sự đọc, óc khái quát, tính sáng tạo tuyệt vời của nhà thơ Nguyên Hùng cho sự tri ân tới các tiền bối và đồng bối trên sân khấu văn chương hiện đại.

Những bài không dài, nhưng đủ để tổng hợp “gia tài” của các nhà thơ, nhà văn và nhạc sĩ được điểm tên. Cách kí họa với nhiều thể thơ phù hợp theo “sử văn” của tác giả. Sự xếp đặt câu chữ chính xác và ý thức gọt đẽo ý tứ đã tạo nên sự vuông vắn đẹp đẽ cho mỗi chân dung và đạt được giá trị “tương đối” trên phương diện thông tin và “tuyệt đẹp” trên phương diện thẩm mỹ:

“Trai Hải Phòng Một đêm Hà Nội/ Hồn mơ màng theo khúc Thiên Thai” (Kí họa chân dung Văn Cao, tr 26). Cùng trong một câu thơ có hai địa danh: Một địa danh là nơi sinh ra, một địa danh là “địa danh nghệ thuật”. Sự bắt nối cảm- hiểu nơi thơ được tác giả hành dụng ngôn từ thật “chân xác”. Như “xâu chỉ luồn kim” để thêu thùa những đường nét căng đầy mà mong manh “phận mỏng cánh chuồn” đã rụng xuống mặt hồ thu lăn tăn đôi ba gợn sóng. Văn Cao vốn dĩ đã sống “căng đầy” cho lý tưởng nhưng rồi Buồn tàn thu ám vận suốt một đời”. Bản nhạc “Buồn tàn thu” kết hợp tương khớp và nhịp nhàng với câu chữ biểu đạt số phận bị “sóng dập gió vùi” trên con tàu “Văn Nhân Giai Phẩm” đã thể hiện cách “thắt bặt” chữ nghĩa sáng tạo tuyệt vời của nhà thơ để mọi diễn ngôn đều không một gút sợi như bị “ép buộc” gả ghép…

Khi kí họa chân dung Trần Đăng Khoa, giọng thơ chuyển đổi nhịp nhàng, hồn nhiên để phù hợp với tâm thức hồn thơ của nhà thơ cũng là cách để ca ngợi thời điểm thơ dọi sáng thần đồng. Ngũ ngôn hiện đại hóm hỉnh, vui tươi, họa cả dung dáng đời thường của tác giả: “Dáng chú Cuội nông dân/ Mà hoạt ngôn- hóm- sắc”. Đôi nét khảo sát trên đã cho thấy tinh thần thẩm mỹ trong tập thơ, giá trị của nó là trên nhiều phương diện. Sự ra đời của nó là cần thiết ở thời điểm văn chương nghệ thuật đang “mờ mờ” trước thứ phù phiếm phàm phu của những trò giải trí rẻ tiền…

Những gương mặt được tuyển lựa đã tạo được dấu ấn đặc biệt nổi bật trong văn chương đương đại. Không chỉ nói về tác phẩm, văn cách mà Nguyên Hùng còn tìm hiểu để đan cài khéo léo những “bóng hồng” bên đời các nhà thơ và nghệ sĩ. Từ đó kí họa bỗng trở nên “trìu mến”, hết sức dễ thương.

Tác giả “không ngần ngại” giới thiệu và giới thiệu độc đáo, am tường về Bùi Anh Tấn và thế giới Văn học đồng tính. Người đọc có dịp nhìn nhận “cởi mở” và mở ra muôn ngã nghĩ ngợi cho sự có mặt của “ảnh tượng” đồng tính với vai trò trung tâm trong văn học và cả văn hóa Việt Nam đương đại.

Cuốn KÍ HỌA THƠ (81 chân dung văn học) của Nguyên Hùng đủ tư cách của một cuốn văn học sử về cuộc đời và văn nghiệp của những tác giả được kể đến. Ngôn ngữ kí họa với tư thái trữ tình, tính dân gian nhẹ nhàng, uyển chuyển trong các thể thơ dân tộc đã giúp người đọc dễ dàng nhận diện ra “gương mặt” nghệ sĩ.

Xét góc độ thẩm mỹ của hình thức in ấn, trình bày. Điều này là một phần quan trọng để cái đẹp được toàn bích trong bối cảnh tiếp nhận nghệ thuật hiện đại. Bìa sách có họa nửa dung hình của các nhân sĩ như dụng ý về việc còn đó những điều chưa thể nhận diện được bởi những chân dung kia là những con người đã làm nên thế kỉ. Làm nên lịch sử trên nhiều mặt trận: “Máu và Hoa”. Cho nên luôn còn đó những giá trị mênh mông cho đời đời chiêm ngắm.

Nhìn lên bức tường đầy gia huy kia một lúc, mở rộng trí tưởng tôi như thấy mình bước tới gian phòng huy hoàng được treo trên tường các bức họa cổ kính. Những bức tường nơi đây đã kể lại bao điều. Bức chân dung những ai kia thật kì vĩ. Những đôi mắt đã chảy xiết bao giọt lệ thấm sâu vào giấy mực. Trong đôi đồng tử đã từng âm vang tiếng thở dài chân thành buồn bã. Dụng ý cắt tranh thành hình bán nguyệt đã giúp hiển lộ đôi “đồng tử” sáng hoắc, chứa ngàn tia lửa ưu uất: Có đôi mắt còn trâng tráo. Có đôi mắt như có ánh thép chiếu diệu. Rồi nụ cười ai kia như bông hoa dọc chiến hào nở rộ năm cánh tươi màu dưới bầu trời quang đãng. Chỉ riêng đôi mắt “Hoàng tử thơ tình” vẫn ngây thơ. Bởi chén đời mắt ai anh đã uống cạn. Ái tình như rượu ngọt chỉ tiếc chàng đã uống quá say. Để mắt chàng “nghiêng nghiêng” nhìn đời như bóng lưng “Em đi rượu cạn, còn lời Thanh Ca”.

Kí họa thơ, hình ảnh chân dung cùng những chú mục thông tin cho mỗi một nhà thơ trong hai mặt giấy đối xứng. Cỡ, kiểu chữ không chói màu, người đọc thấy dịu mắt cho nên đã cay khóe mi rồi đong chứ dòng lệ đến nhói lòng khi đọc tới “giọt máu” cuối cùng chảy lan thấm từ bức bích họa được treo phía cuối căn phòng đó:“Đành ngậm ngùi dắt yêu thương rời cõi tạm”.

Mở đầu kí họa hồn thơ chủ thể trữ tình đã gặp được “người cha” của mình. Người cha của nông thôn làng cảnh. “Hạt bụi vàng quê mùa” đó đã về đây hôm nay để chứng kiến người con trai của mình viết về cha anh, bè bạn. Nghe phảng phất trong gió hương đồng gió nội. Cha đã về kịp để hôn lên vầng trán trỉn mồ hôi đồng chua nước mặn của con trai. Và khi cánh cửa thơ khép lại thi dân, văn dân đã đưa ánh mắt nhìn xuống và thắp lên bàn thờ nghệ thuật một nén nhang thơm thoang thoảng Quỳnh hương để anh hồn anh được siêu thăng thường hằng. Anh và chị đã chết để minh chứng cho thơ ca, kịch nghệ mãi mãi trường tồn bất tử cùng vạn vật trong vạn đời, vạn kiếp như chân lý kia mãi mãi chiến thắng cái xấu, cái ác trên cõi đời…

Nguồn:

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm