TIN TỨC

“Sợi tình tơ nghĩa” trong “Ký họa thơ”

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2024-10-10 12:40:51
mail facebook google pos stwis
1471 lượt xem

TUẤN TRẦN

Thơ lồng trong thơ. Đời đằm trong thơ. Nhà thơ ngậm ngùi ngồi trong thơ hay cái đẹp tôn vinh cái đẹp. Dùng thơ vẽ “hồn thơ”. Dùng thơ vẽ “đời thơ”. Dùng thơ vẽ số phận của nhà thơ cho “nên thơ”. Tất cả từ thứ thơ sinh ra để hết mình cho việc tri ân thơ và “hồn thơ” đó là “KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC” của một “LẶNG THẦM HOA QUÊ”

Con người Nguyên Hùng trước hết với tôi là một nhà thơ thuần lành, thuần khiết và thuần giãn. Thơ Nguyên Hùng trước hết với tôi là “ngõ nhỏ quê mùa” luôn rộng mở đón khách, những vị khách với bước chân vô tình. Ngõ nhỏ đủ lặng lẽ cho những nhịp đời đã “mỏi gối chùn chân”. Tôi tìm đến thơ anh trong những vần thơ mộc mạc đời thường. Con người anh cũng như loài “hoa khoai” ấy: mong manh, nhàu nhĩ, phơn phớt tím. Vì áp vía mặt đất nên hương cũng chỉ vậy thôi: mùi hương thôn, mùi đất nghèo, rất khiêm nhường mà rất kiên cường: “Thương quê mình đồng khô gió mặn/ Thương hoa khoai tím trắng dịu dàng” (Lặng thầm hoa quê). Bối cảnh cuộc sống với tốc độ sống bức bối, gấp gáp, người ta đói những kết nối với sự an ủi bình yên. Chính vì thế mà thơ Nguyên Hùng đã trở thành “Trăm khúc hát một chữ duyên”. Cái quê mùa đó đã cất cánh bay lên như tiếng sáo mục đồng gọi lại thời gian hoài cựu êm thấm, ôn nhu, từ ái…


Ảnh: Kiều Bích Hậu

Những khúc hát nghĩa nặng tình sâu sẽ còn đó, đồng vọng tha thiết, vuốt dịu không khí nhức nhối của đổi chác mưu sinh hôm nay. Ta đã gặp hồn thơ anh ở một vai trò khác, vị trí khác, ở một giá trị thẩm mỹ và nhân văn khác: cái giao hảo người- người trìu mến, thân thương. Cái đối xử với mình nhẫn nại, cân nhắc: Bền lòng, khoan thư, dung thông cởi mở, dịu ngọt với đời sống.

Chính cái nhìn “trung hòa” và hồn thơ “chân ngã lương thiện” đã “hữu ý” kết nối anh với những hồn thơ khác và đứa con tinh thần KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC) đã ra đời “đúng người và đúng thời điểm”. Cái ngoái nhìn này, ánh mắt “huệ nhãn” của tác giả đã lặng thầm nói lời cảm tạ. Đôi đồng tử lấp lánh sự sống tri ân và hàng mi hơi cụp xuống đó đã thể hiện ánh nhìn hoài cảm cho nỗi lòng kẻ đi gieo chữ, cày mây trên trời và gieo trồng muôn dặm sao. Nhân sĩ đời nào chẳng tự làm đau mình để thấu hiểu sâu cay nỗi đau của đời…

 Bằng tất cả những gì đẹp đẽ nhất trong lòng lành thiện hạnh nhà thơ đã tung tẩy “nét cọ” của mình tạc vẽ những gương mặt Nghệ sĩ thi ca với độ trong đẹp nhất nơi tâm hồn của họ và cuộc đời thẩm mỹ đa mang, chói gắt, nhạo báng, máu tươi, nước mắt gặp gỡ giữa hai hàng lệ tuôn khi đi qua chìm nổi thế thái nhân tình. 81 gương mặt nhân sĩ đều “hữu duyên hạnh ngộ”, “ngẫu nhiên tương phùng” giữa bể người mênh mông và không ngại xem nhau là tri kỉ. Sở dĩ tôi cảm- tưởng như thế vì tôi hiểu cái hồn cốt dân dã “quê mùa” thì lấy đâu ra rắc tâm lựa lọc, mưu tính, sắp đặt. Nhưng một điều cao hơn tất cả đó là 81 chân dung được “khắc [khoải]” đều gặp gỡ anh hồn thơ của chủ thể trữ tình ở sự hết mình cho nghệ thuật, đã mất mát vì nghệ thuật, đã dành cả một đời lao động thơ ca như cách “móc tim mình ra cho quạ rỉa”. Hiến tặng linh hồn mình cho loài “ác điểu” hi vọng nó “dung thứ” cho cuộc đời: “Để nửa đời mình anh trong một thế giới”. (Kí họa chân dung “Trần Mạnh Hảo”, Tr. 56). Như lá vàng rụng đơn độc vẫn tiếp tục nâng níu bước chân đời bằng những con đường mùa thu êm ả. Và dĩ nhiên khi đã “phụng hiến vô tư” bất chấp “rỉ máu” nghĩa là họ có tên trên chiếu thơ đương đại với những vị trí cao đạo nhất. Như “con thuyền chở đạo nặng tình non sông” (Kí họa chân dung “Bảo Định Giang”, tr. 48)

Để nói về cuốn KÍ HỌA THƠ (81 CHÂN DUNG VĂN HỌC) của tác giả Nguyên Hùng tôi xin “khảm bạc” trong mấy chữ và chỉ cần ngần nấy thôi là đủ: “VƯƠN TỚI CÁI ĐẸP THUẦN KHIẾT”. Bởi vì “lá rụng về cội”, họ đi từ làng, bờ tre mái rạ, từ đồng xanh, lũy tre, hương sen bát ngát. Thì họ cũng sẽ về nơi đó nơi “thuần khiết” và chìm vào mênh mông lòng mẹ để “giọt máu dân gian tái sinh”: Tái sinh trong lục bát với lối kể về đời và thơ tâm tình, nhẹ nhàng, sâu lắng mà lại phơi ra đó “đời du ca” ngất ngưởng nhưng đầy sĩ khí.

81 bông hoa hồn hậu quê nhà và rời làng âm thầm như cơn bão: Kẻ ra trận, người lạc nẻo. Người đã về với tiên thiên, ai đó ở lại vẫn đắng đót tìm “trầm” thơ.  Những văn nhân và nhạc sĩ được tuyển lựa để kí họa là những tác giả đã tạo ra những định hướng cho nền Văn học Việt Nam hiện đại. Dùng thơ để giới thiệu về “gương mặt” (phong cách) thơ, văn, nhạc của các nghệ sĩ chắc hẳn tác giả Nguyên Hùng đã phải tỉ mẩn và tế vi để gia công. Muốn làm được điều đó trước hết phải có “lòng”. Tấm lòng của “viên quản ngục” (Chữ người tử tù _ Nguyễn Tuân). Tấm lòng thiên hạ, yêu cái đẹp, nguyện hiến cho cái đẹp và “phủ phục” để có được cái đẹp.

Thế nhưng mang “tấm lòng viên quan coi ngục” mới chỉ là một góc để cho cuốn “Kí họa thơ” ra đời. Điều quan trọng là cái nhìn hệ thống, sự đọc, óc khái quát, tính sáng tạo tuyệt vời của nhà thơ Nguyên Hùng cho sự tri ân tới các tiền bối và đồng bối trên sân khấu văn chương hiện đại.

Những bài không dài, nhưng đủ để tổng hợp “gia tài” của các nhà thơ, nhà văn và nhạc sĩ được điểm tên. Cách kí họa với nhiều thể thơ phù hợp theo “sử văn” của tác giả. Sự xếp đặt câu chữ chính xác và ý thức gọt đẽo ý tứ đã tạo nên sự vuông vắn đẹp đẽ cho mỗi chân dung và đạt được giá trị “tương đối” trên phương diện thông tin và “tuyệt đẹp” trên phương diện thẩm mỹ:

“Trai Hải Phòng Một đêm Hà Nội/ Hồn mơ màng theo khúc Thiên Thai” (Kí họa chân dung Văn Cao, tr 26). Cùng trong một câu thơ có hai địa danh: Một địa danh là nơi sinh ra, một địa danh là “địa danh nghệ thuật”. Sự bắt nối cảm- hiểu nơi thơ được tác giả hành dụng ngôn từ thật “chân xác”. Như “xâu chỉ luồn kim” để thêu thùa những đường nét căng đầy mà mong manh “phận mỏng cánh chuồn” đã rụng xuống mặt hồ thu lăn tăn đôi ba gợn sóng. Văn Cao vốn dĩ đã sống “căng đầy” cho lý tưởng nhưng rồi Buồn tàn thu ám vận suốt một đời”. Bản nhạc “Buồn tàn thu” kết hợp tương khớp và nhịp nhàng với câu chữ biểu đạt số phận bị “sóng dập gió vùi” trên con tàu “Văn Nhân Giai Phẩm” đã thể hiện cách “thắt bặt” chữ nghĩa sáng tạo tuyệt vời của nhà thơ để mọi diễn ngôn đều không một gút sợi như bị “ép buộc” gả ghép…

Khi kí họa chân dung Trần Đăng Khoa, giọng thơ chuyển đổi nhịp nhàng, hồn nhiên để phù hợp với tâm thức hồn thơ của nhà thơ cũng là cách để ca ngợi thời điểm thơ dọi sáng thần đồng. Ngũ ngôn hiện đại hóm hỉnh, vui tươi, họa cả dung dáng đời thường của tác giả: “Dáng chú Cuội nông dân/ Mà hoạt ngôn- hóm- sắc”. Đôi nét khảo sát trên đã cho thấy tinh thần thẩm mỹ trong tập thơ, giá trị của nó là trên nhiều phương diện. Sự ra đời của nó là cần thiết ở thời điểm văn chương nghệ thuật đang “mờ mờ” trước thứ phù phiếm phàm phu của những trò giải trí rẻ tiền…

Những gương mặt được tuyển lựa đã tạo được dấu ấn đặc biệt nổi bật trong văn chương đương đại. Không chỉ nói về tác phẩm, văn cách mà Nguyên Hùng còn tìm hiểu để đan cài khéo léo những “bóng hồng” bên đời các nhà thơ và nghệ sĩ. Từ đó kí họa bỗng trở nên “trìu mến”, hết sức dễ thương.

Tác giả “không ngần ngại” giới thiệu và giới thiệu độc đáo, am tường về Bùi Anh Tấn và thế giới Văn học đồng tính. Người đọc có dịp nhìn nhận “cởi mở” và mở ra muôn ngã nghĩ ngợi cho sự có mặt của “ảnh tượng” đồng tính với vai trò trung tâm trong văn học và cả văn hóa Việt Nam đương đại.

Cuốn KÍ HỌA THƠ (81 chân dung văn học) của Nguyên Hùng đủ tư cách của một cuốn văn học sử về cuộc đời và văn nghiệp của những tác giả được kể đến. Ngôn ngữ kí họa với tư thái trữ tình, tính dân gian nhẹ nhàng, uyển chuyển trong các thể thơ dân tộc đã giúp người đọc dễ dàng nhận diện ra “gương mặt” nghệ sĩ.

Xét góc độ thẩm mỹ của hình thức in ấn, trình bày. Điều này là một phần quan trọng để cái đẹp được toàn bích trong bối cảnh tiếp nhận nghệ thuật hiện đại. Bìa sách có họa nửa dung hình của các nhân sĩ như dụng ý về việc còn đó những điều chưa thể nhận diện được bởi những chân dung kia là những con người đã làm nên thế kỉ. Làm nên lịch sử trên nhiều mặt trận: “Máu và Hoa”. Cho nên luôn còn đó những giá trị mênh mông cho đời đời chiêm ngắm.

Nhìn lên bức tường đầy gia huy kia một lúc, mở rộng trí tưởng tôi như thấy mình bước tới gian phòng huy hoàng được treo trên tường các bức họa cổ kính. Những bức tường nơi đây đã kể lại bao điều. Bức chân dung những ai kia thật kì vĩ. Những đôi mắt đã chảy xiết bao giọt lệ thấm sâu vào giấy mực. Trong đôi đồng tử đã từng âm vang tiếng thở dài chân thành buồn bã. Dụng ý cắt tranh thành hình bán nguyệt đã giúp hiển lộ đôi “đồng tử” sáng hoắc, chứa ngàn tia lửa ưu uất: Có đôi mắt còn trâng tráo. Có đôi mắt như có ánh thép chiếu diệu. Rồi nụ cười ai kia như bông hoa dọc chiến hào nở rộ năm cánh tươi màu dưới bầu trời quang đãng. Chỉ riêng đôi mắt “Hoàng tử thơ tình” vẫn ngây thơ. Bởi chén đời mắt ai anh đã uống cạn. Ái tình như rượu ngọt chỉ tiếc chàng đã uống quá say. Để mắt chàng “nghiêng nghiêng” nhìn đời như bóng lưng “Em đi rượu cạn, còn lời Thanh Ca”.

Kí họa thơ, hình ảnh chân dung cùng những chú mục thông tin cho mỗi một nhà thơ trong hai mặt giấy đối xứng. Cỡ, kiểu chữ không chói màu, người đọc thấy dịu mắt cho nên đã cay khóe mi rồi đong chứ dòng lệ đến nhói lòng khi đọc tới “giọt máu” cuối cùng chảy lan thấm từ bức bích họa được treo phía cuối căn phòng đó:“Đành ngậm ngùi dắt yêu thương rời cõi tạm”.

Mở đầu kí họa hồn thơ chủ thể trữ tình đã gặp được “người cha” của mình. Người cha của nông thôn làng cảnh. “Hạt bụi vàng quê mùa” đó đã về đây hôm nay để chứng kiến người con trai của mình viết về cha anh, bè bạn. Nghe phảng phất trong gió hương đồng gió nội. Cha đã về kịp để hôn lên vầng trán trỉn mồ hôi đồng chua nước mặn của con trai. Và khi cánh cửa thơ khép lại thi dân, văn dân đã đưa ánh mắt nhìn xuống và thắp lên bàn thờ nghệ thuật một nén nhang thơm thoang thoảng Quỳnh hương để anh hồn anh được siêu thăng thường hằng. Anh và chị đã chết để minh chứng cho thơ ca, kịch nghệ mãi mãi trường tồn bất tử cùng vạn vật trong vạn đời, vạn kiếp như chân lý kia mãi mãi chiến thắng cái xấu, cái ác trên cõi đời…

Nguồn:

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm