TIN TỨC

Thân thế của nữ sĩ Hồ Xuân Hương được giải mã…

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-05 22:38:11
mail facebook google pos stwis
6002 lượt xem

 

Tìm mộ Hồ Xuân Hương như mò kim đáy biển. Năm 1822 khi nữ sĩ qua đời mộ chôn ở nghĩa địa Phủ Tây Hồ, làng Nghi Tàm. Năm 1842 họ hàng của ông Trần Phúc Hiển đã di hài cốt nữ sĩ về quê chồng ở Tam Kỳ, Quảng Nam. Năm 1850 lăng mộ nữ sĩ được xây khang trang dấu tên đổi họ thành Huỳnh Hoàn Nhân, mộ vô chủ, nay thuộc phường An Sơn TP Tam Kỳ. Đó là bí ẩn cuối cùng bí ẩn thứ 9 được giải mã trong tác phẩm “Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương” của tác giả Nghiêm Thị Hằng.

Phần 4 của tác phẩm: Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương, tác giả Nghiêm Thị Hằng kể về hành trình tìm mộ Hồ Xuân Hương và ông Trần Phúc Hiển.

Thông tin về phần mộ ban đầu của Hồ Xuân Hương được xác định theo bài thơ Long Biên trúc tri từ của Tùng Thiện Vương viết đầu thu năm 1842, sau 20 năm nữ sĩ qua đời. Bài thơ chỉ dấu, mộ nàng thơ được chôn ở ven Hồ Tây.


Tác giả Nghiêm Thị Hằng (đứng giữa), tặng sách “Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương” cho bạn đọc.

Năm 2003 con cháu họ Hồ có cuộc đi tìm mộ nữ sĩ lần thứ nhất, với sơ đồ vẽ phần mộ thuộc nghĩa địa Đồng Táo đã chìm trong sóng nước Hồ Tây. Việc tìm mộ thất lạc thiếu thông tin trên cạn đã khó, tìm mộ chìm dưới sóng nước Hồ Tây, chẳng khác gì “mò kim đáy biển”. Cả 3 lần con tàu của họ Hồ ra giữa Hồ Tây tìm mộ nữ sĩ đều trục trặc, khi thì tàu hỏng máy, khi thì mưa giông gió lớn, cản ngăn. Là người đã có kinh nghiệm đi tìm mộ, thường mưa thuận gió hòa, thuận âm thuận dương, có người đưa đường chỉ lối, sự trục trặc trên, dường như nữ sĩ đã ngăn cản, chỉ dẫn mộ nàng thơ không ở nghĩa địa Đồng Táo.

Theo thông tin của những người có khả năng đặc biệt chỉ dẫn, thì mộ nữ sĩ được chôn tại nghĩa địa phủ Tây Hồ, trước mé nước phủ Tây Hồ hiện nay ra hồ khoảng 100m, đây là nơi chôn những người danh tiếng của triều đình và trong xã hội. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương dạy học ở làng Nghi Tàm, là nhà thơ nổi, bà được dân làng chôn ở nghĩa địa Phủ Tây Hồ cùng những người danh tiếng.


Mộ Giày Thầy Lánh (tức cụ Nguyễn Đức Thêm) hơn 200 năm, chôn phía trước lăng mộ Tiền hiền mở đất tộc Trần làng Tam Kỳ cổ.

Dường như có sự kết nối vô hình giữa tâm linh và người đi tìm mộ (nhà báo Nghiêm Thị Hằng) đã có những thông tin hữu ích. Theo tử vi thì phần mộ nữ sĩ không nằm ở dưới hồngập nước vì cuối năm 1842 khi bài thơ Long Biên trúc tri từ xuất hiện, người họ hàng của ông Trần Phúc Hiển đã đưa mộ nàng thơ về quê chồng yên nghỉ.

Vậy quê chồng nàng thơ ở đâu? Tác giả đã giải mã được bí ẩn, ông Trần Phúc Hiển có biệt hiệu là Mai Sơn Phủ, từ đây cánh cửa về quê chồng nữ sĩ được mở ra. Nếu như bài thơ Vịnh Thanh Minh của Hồ Xuân Hương năm 1815, chỉ dấu cho tác giả tìm được phần mộ song thân nữ sĩ cụ Hồ Phi Diễn, cụ Hà Thị, an nghỉ ở nghĩa địa Đồng Táo, thì bài thơ Long Biên trúc chi từ của Tùng Thiện Vương, chỉ dấu mộ nàng thơ chôn ở ven Hồ Tây, còn bài thơ Thu Nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ ký ( tức bài Đêm Thu nhớ Mai Sơn Phủ, Hồ Xuân Hương viết vào mùa Thu năm 1815, trước khi lấy ông Trần Phúc Hiển (năm 1816), lại chỉ rõ dấu tích quê hương của ông Mai Sơn Phủ. Nữ sĩ viết: “Bên am Nhất Trụ trông còn đấy/Ngọn nước Tam Kỳ chảy lại đâu?”, hai câu thơ này là nỗi lòng của nữ sĩ ở kinh thành Thăng Long (chùa Một Cột – am Nhất Trụ) nhớ về quê của ông Mai Sơn Phủ – Ngọn nước Tam Kỳ chảy lại đâu?

Tác giả cũng đã tìm ra quê hương ông Trần Phúc Hiển trong Đại Nam thực lục chính biên ở đằng trong. Vậy ở đằng trong thì tỉnh nào có “ngọn nước Tam Kỳ”  tức là sông Tam Kỳ? Theo dư địa chỉ thời nhà Nguyễn, thì tỉnh Quảng Nam có sông Tam Kỳ. Câu thơ “Ngọn nước Tam Kỳ chảy lại đâu?”, tình ấy, cảnh ấy, chỉ rõ đây là quê hương của Mai Sơn Phủ, bên bến nước Tam Kỳ. Tác giả đã giải mã bí ẩn quê hương của ông Trần Phúc Hiển- Mai Sơn Phủ ở làng cổ Tam Kỳ, ngã ba sông Tam Kỳ, thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa, xứ Quảng, thời nhà Nguyễn.

Lại theo sách “Thọ Mai-Gia Lễ” của người xưa nói về phần mộ của người phụ nữ khi qua đời, thường được chôn ở quê chồng theo câu ca “Sống quê cha-Ma quê chồng”? Vậy hài cốt Hồ Xuân Hương có được đưa về quê chồng?


Ngôi mộ cổ vô thừa nhận tại phường An Sơn thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam được xây dựng năm 1850 được giải mã đó là mộ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Nhờ có kinh nghiệm gần 30 năm đi tìm mộ thiếu thông tin, nhà báo, nhà thơ Nghiêm Thị Hằng đã từng giúp các gia đình liệt sĩ tìm được thông tin, để đủ điều kiện khai quật phần mộ, lấy hài cốt liệt sĩ đi kiểm tra ADN, sau đó đón hài cốt liệt sĩ về quê. Kinh nghiệm ấy, giờ đây đi tìm mộ Hồ Xuân Hương, tác giả đã liên kết giữa dấu tích phần mộ của nữ sĩ khi qua đời chôn ở ven Hồ Tây là sự thật, nhưng hài cốt có còn ở nơi chôn cất ban đầu, hay đã cải cát đưa về quê chồng, giống như mộ liệt sĩ đã quy tập về nghĩa trang, nhưng sau đó gia đình lại đưa hài cốt về quê, thì ở nghĩa trang phần mộ vẫn còn nhưng không có hài cốt?

Trong hành trình đi tìm mộ nữ sĩ tại quê chồng ở Quảng Nam, Nghiêm Thị Hằng đã có được thông tin từ những người có khả năng đặc biệt cho biết, mộ nữ sĩ đã đưa về quê chồng nhưng không chôn gần mộ chồng. Trên mộ hoang có chữ cổ, minh bia ghi năm xây dựng 1850, thông tin này do cô Trương Thị Diệp ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, chỉ dẫn từ tháng 8/2020. Còn bà Nguyễn Thị Thùy ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, chỉ dẫn ngày 22/12/2020, mộ ông Trần Phúc Hiển và mộ nữ sĩ đều thay tên đổi họ và chôn ở nơi hoặc là gần núi (Vì có chữ SƠN), hoặc là địa phương có tên địa danh có chữ SƠN vào. Trước đó tác giả cũng đã mơ thấy việc chuyển hài cốt nữ sĩ Hồ Xuân Hương từ nghĩa địa phủ Tây Hồ về quê chồng phương tiện di chuyển bằng con ngựa màu vang.

Khi giúp gia đình ông Nguyễn Văn Thu tìm mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Xuân ở thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam kết thúc vào ngày 30/12/2020, ngày 31/12/2020, tác giả đã được chỉ dẫn hành trình tìm mộ ông Trần Phúc Hiển và nữ sĩ Hồ Xuân Hương thuận lợi “Thiên thời địa lợi”.

Trước khi vào Tam Kỳ tìm mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương và mộ ông Trần Phúc Hiển, tác giả đã nghiên cứu kỹ  những ngôi mộ cổ gần 200 năm vô thừa nhận ở phường An Sơn và ngôi mộ Giày Thầy Lánh đầy màu sắc huyền thoại ở phường Hòa Hương. Sau khi được cán bộ UBND phường Hòa Hương đưa đến viếng thăm ngôi mộ Giày Thầy Lánh vào cuối chiều ngày 30/12/2020, tác giả nhận định đây không phải là mộ chôn chiếc giày của Thầy Lánh  theo huyền thoại  mà dưới mộ là con người thật mang tên Nguyễn Đức Thêm và có hậu duệ ở làng Diêm Điềm, huyện Núi Thành thờ cúng. Từ phát hiện này  tác giả được chỉ dẫn đến thắp hương tại nhà thờ cổ (gần 200 năm) ở thôn Bản Long xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, thờ cúng cụ Nguyễn Đức Thêm. Tại nhà thờ cổ họ Nguyễn, tác giả đã gặp ông Nguyễn Văn Phúc hậu duệ đời thứ 5 của cụ Nguyễn Đức Thêm. Ông Phúc có người con trai là Nguyễn Trần Vĩnh Hiển. Thêm một bí ẩn nữa được phát lộ, tác giả đang đi tìm phần mộ của cụ Trần Phúc Hiển, về chính ngôi nhà thờ cụ Nguyễn Đức Thêm, lại gặp hậu duệ của cụ (bố tên Phúc- con tên Hiển) như điềm báo đã tìm đúng hậu duệ của cụ Trần Phúc Hiển. Sau khi cụ Trần Phúc Hiển là tội phạm của triều đình bị xử tội chết, thì con cháu đã đổi họ từ Trần sang Nguyễn, nhưng đến đời hậu duệ thứ 6, con ông Nguyễn Văn Phúc thì lại lấy họ Trần ghép sau họ Nguyễn để lại dấu tích người họ Trần.

Từ đây những bí ẩn về dòng họ Trần, họ Nguyễn, từ Thanh Hóa theo chúa Nguyễn Hoàng vào Nam mở đất thế kỉ 16, được phong là Tiền hiền của làng Tam Kỳ cổ, có liên quan đến phần mộ tộc Trần và mộ Giày Thầy Lánh được làm sáng tỏ. Mộ Giày Thầy Lánh được giải mã là mộ cụ Trần Phúc Hiển chôn ở bãi SƠN, trước khu lăng mộ tiền hiền họ Trần làng Tam Kỳ, được kiểm chứng đúng như thông tin của bà Nguyễn Thị Thùy chỉ dẫn. Mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương chôn ở phường An SƠN mang tên Huỳnh Hoàn Nhân có minh bia chữ hán ghi năm xây mộ 1850, đúng như thông tin của cô Trương Thị Diệp và bà Nguyễn Thị Thùy đã đưa ra từ tháng 8 và tháng 12/2020.

Như vậy dấu tích về phần mộ của nữ sĩ tại quê chồng (miền đất cổ Tam Kỳ-Quảng Nam) đã được tác giả Nghiêm Thị Hằng giải mã, đây là bí ẩn thứ 9 trong tác phẩm “Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương” được minh chứng sáng tỏ có cơ sở và có khoa học.

Thân thế của Hồ Xuân Hương đã được Nghiêm Thị Hằng giải mã 9 bí ẩn rõ ràng, đây là những kết quả nghiên cứu khoa học, đủ điều kiện để UBND tỉnh Nghệ An làm tờ trình Bộ Văn hóa –Du lịch và UNESCO Việt Nam trình UNESCO thế giới  hồ sơ ứng viên nữ sĩ Hồ Xuân Hương một con người tài danh bậc nhất trong các nhà thơ nữ Việt Nam thế kỉ XVIII-XIX.  Dưới chế độ phong kiến, nữ sĩ là người phụ nữ đầu tiên dám lên tiếng đấu tranh mạnh mẽ cho nữ quyền qua tác phẩm thi ca. Những kiệt tác của bà để lại không chỉ được tôn vinh trong nước mà có tầm ảnh hưởng thế giới, đến nay đã có hơn 10 quốc gia đã dịch và giới thiệu thơ của Hồ Xuân Hương. Bà xứng đáng được UNESCO vinh danh “Danh nhân văn hóa” nhân kỉ niệm 200 năm ngày mất (1822-2022) của bà – nữ sĩ Hồ Xuân Hương-Bà Chúa thơ Nôm. Đó chính là mục tiêu tác phẩm “ Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương” của tác giả Nghiêm Thị Hằng hướng tới.

Theo Hồ Xuân/Văn nghệ

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm