TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Có một nguồn thi hứng về văn hóa Óc Eo trong thơ Đồng bằng Sông Cửu Long

Có một nguồn thi hứng về văn hóa Óc Eo trong thơ Đồng bằng Sông Cửu Long

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-09-20 11:49:41
mail facebook google pos stwis
2995 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – 1. Văn hóa Óc Eo là di sản văn hóa vô giá góp phần minh chứng cho quá trình khai phá, mở mang, phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có từ ngàn xưa. Nó chứa đựng những giá trị lớn cả về vật chất lẫn tinh thần trong đời sống của dân tộc Việt Nam nói chung và cư dân ở ĐBSCL nói riêng. Vì thế, từ sau năm 1975 đến nay đã có nhiều cuộc Hội thảo khoa học, nhiều công trình khảo cứu về nền văn hóa rực rỡ này, để trên cơ sở đó làm rõ những điều bí mật bị chìm lấp qua hàng ngàn năm lịch sử; đồng thời, góp phần khẳng định, tôn vinh và gìn giữ những gì cao quý mà các bậc tiền nhân đã làm nên. Trong bối cảnh đó, nhiều nhà thơ ở ĐBSCL, nhất là những nhà thơ ở An Giang đã có những vần thơ xúc động giãi bày tâm tình và tự hào về cái đẹp của văn hóa Óc Eo còn lưu giữ được nơi đây.


Di tích về một vương quốc Phù Nam.

Khác với nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, nhà thơ tiếp cận, khám phá hiện vật của văn hóa Óc Eo bằng trí tưởng tượng và sự liên tưởng – một nét đặc trưng của nghệ thuật sáng tạo thơ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ trình bày những cảm nhận của họ về văn hóa Óc Eo qua những bài thơ tiêu biểu được chọn in trong các tuyển tập thơ của nhiều tác giả, cụ thể là: 30 năm thơ An Giang, Tự dưng mà nhớ An Giang (Tuyển tập thơ viết về An Giang), Thơ Đồng bằng sông Cửu Long năm 2020 (Tác phẩm từ cuộc thi thơ khu vực ĐBSCL lần thứ VI năm 2020) và một vài bài thơ in ở các tập thơ khác.

2. Theo chúng tôi, không phải ngẫu nhiên mà trong các tuyển thơ trên có nhiều bài thơ được xuất phát từ cảm hứng về văn hóa Óc Eo. Có thể nói, chính cái đẹp, cái quý rất đáng tự hào trân trọng của di sản văn hóa này đã tạo cho thi nhân nguồn thi hứng để họ sáng tạo nên nhiều vần thơ hay. Những cảm nhận của họ được xuất phát từ nhiều chiều kích khác nhau khi nhìn ngàn xưa để kết nối với hôm nay, cũng như nhìn hôm nay để nghĩ về ngàn xưa.

Tìm về Di chỉ Óc Eo, Võ Thị Kim Liên quan niệm đó không chỉ là di chỉ văn hóa một thời, không chỉ là huyền thoại, mà mãi mãi vẫn còn đây chứng tích về vương quốc Phù Nam phồn hoa. Nhà thơ quan niệm, giữa cuộc sống hôm nay đừng quên nhắc chuyện ngày xưa, bởi âm thanh cuộc sống xa xưa luôn vọng về và ở đâu đây có “tiếng nói cười của trai gái Óc Eo ngày ấy” và cả “tiếng cồng chiêng nhảy múa”. Nhà thơ lòng tự dặn lòng, theo quy luật phát triển, cuộc đời ngày một đẹp hơn nhưng đừng quên cuộc sống hôm nay bắt đầu từ ngày hôm qua:

“Đất chín rồng phù sa mãi đắp bồi

Óc Eo thêm tầng trầm tích

Vốc nắm đất cha ông nhiều mật

Ta biết Óc Eo xưa trong máu thịt bây giờ”.

Cũng với cái nhìn từ hôm nay nghĩ về ngàn xưa, qua bài thơ Ở Óc Eo – Vọng Thê, từ cảnh sắc thực tại ngút ngàn một màu xanh của lúa, tràm và cỏ, Nguyễn Lập Em vẫn nhận ra nơi đây in dấu một thời đại phồn thịnh sau dâu bể của đời:

“Dấu vết nghìn năm in rõ

Biển lùi xa lưu lại bãi sò

Người xưa từng sống chết đói no

Nơi đã từng phồn thịnh đền đài, thương cảng”.   

Thực tại trên khiến nhà thơ băn khoăn, trăn trở bởi trên mảnh đất này còn ẩn chứa biết bao điều chưa có lời giải đáp. Điệp khúc “nơi nào năm xưa…” như xoáy sâu vào nhận thức và gợi cho người đọc nghĩ về những cảnh, những người và cả những lo toan, ước mơ, khát vọng của người xưa. Trước di sản văn hóa Óc Eo, “ngẩng nhìn trời cao”, “cúi nhìn đất nâu”, nhà thơ cảm nhận:

“Gió từ ngàn xưa. Nghìn năm bụi phủ

Biển về bao la. Thành chìm xuống nơi này

Tôi ngỡ gặp người của nghìn năm cũ

Sương gió đi về theo gió, theo mây”.

Còn ở bài thơ Trên đất Óc Eo, Hồ Thanh Điền đã suy tưởng về quá khứ trong sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, của ngày xưa và của bây giờ, qua đó giãi bày những nỗi niềm, ước mơ về sự chân tình, sung túc và bình yên cho thực tại cuộc sống nơi đây. Bằng trí tưởng tượng, nhà thơ tái hiện cảnh ngày xưa, khi Óc Eo là kinh đô của vương quốc Phù Nam sầm uất với “thương cảng lắm tàu ghe”, “ì xèo mua bán”, còn bây giờ “tôi mơ chiếc xuồng ba lá” giữa những cánh đồng mùa mưa lũ để “gỡ con cá con cua, vớt con ốc bươu vàng, nhổ cọng bông súng trắng, hái cọng rau muống xanh”…; “tôi mơ ngôi chợ quê đầu mối” “không có gian manh của chốn thương trường”. Nhà thơ hình dung xã hội ngày xưa với sự phát triển rực rỡ còn được lưu dấu sau hơn ngàn năm lịch sử dù có trải qua bao cuộc bể dâu và mong muốn cuộc sống hiện tại ở miền đất này sẽ có nhiều đổi thay:

“Ở đây ngày xưa là lò luyện kim nấu đồng chế tạo mũi tên, mũi giáo,

nấu vàng đúc hình người phụ nữ bụng mang dạ chửa

Để bây giờ tôi mơ sấy củ khoai mì khoai ngọt, đông lạnh con cá,

con tôm, ép nước trái cây đổi lấy đồng ngoại tệ”…

Cũng đến và suy ngẫm Trên đất Óc Eo, Phạm Nguyên Thạch băn khoăn tự hỏi: “Có không thành phố sầm uất bán buôn/ Cảng biển vào ra thương thuyền tấp nập”, bởi hiện tại chỉ là “Gạch đá ngàn năm im lặng nhìn tôi”. Với nhà thơ, cái lặng im đó ẩn giấu bao điều bí mật, tất cả cảnh vật dù lặng yên giữa không gian hoang vắng nhưng nó đều mang hồn của cuộc sống và thời đại đã qua. Những chứng tích còn lại của một thời phồn hoa qua kiểu “kiến trúc cung đình”, “đồng tiền giao lưu Hy Lạp” và qua nhiều di vật khác bị chôn vùi hàng thế kỉ sau biến động của vũ trụ đã làm cho nhà thơ “xao lòng” thương nhớ:

“Gió cõi nào về lất phất hương xuân

Gò Cây Thị, Cây Trôm, núi Ba Thê nhốt gió

Nhìn phù điêu người mang thai chờ sinh nở

Cứ xao lòng…”

Nếu ở hai bài thơ nói trên của Hồ Thanh Điền và Phạm Nguyên Thạch, dấu ấn về văn hóa phồn thực được biểu hiện ở hình ảnh thơ: “mơ gặp người đàn bà chửa khuỳnh chân múa trên đất Óc Eo xưa”, hay “Nhìn phù điêu người mang thai chờ sinh nở”, thì Đức Ngân khi Về núi Ba Thê lại cảm nhận được nét văn hóa tâm linh qua những dấu tích xưa của “Óc Eo thành quách huyền thoại”. Nhà thơ nhận thấy cảnh sắc nơi đây như “Một thoáng tình về trong gió đưa”, như có hồn và có sức gợi về quá khứ xa xăm, để rồi sau hơn ngàn năm, vết tích huyền thoại: “tiên tắm trên hồ núi/ Vội vã về trời sót dấu chân” còn lưu lại có sức làm xao lòng người hiện tại. Có những cảnh mang ý nghĩa văn hóa tinh thần và có sức gợi liên tưởng mãnh liệt còn đọng mãi với thời gian:

“Thạch đại đao chém mòn gió núi

Chót ông tà còn mãi với thời gian”

Tìm về với di sản văn hóa Óc Eo, dẫu Một thoáng Phù Nam, Mỹ Hằng vẫn cảm nhận được nỗi buồn ở Linh Sơn hoang vắng trước cảnh “lá rụng đầy mặt sân” và trong tiếng “bìm bịp kêu văng vẳng”. Nhà thơ như nghe rõ âm thanh “thì thầm” của cuộc sống ngày xưa vọng nói về:

“Núi Ba Thê mơ màng

Nghe ngàn viên đá nhỏ

Thì thầm chuyện Phù Nam”

Nhà thơ tâm tình với “anh” qua nhiều cung bậc cảm xúc: “Làm sao anh biết được”, “Thôi anh đừng thương tiếc”, “Anh ơi anh có biết” cũng là để tâm tình với chính mình, giãi bày nỗi lòng của mình trước cái dĩ vãng buồn thương như đã thấm vào cảnh vật, làm cho “hòn đá cũng cô đơn”, “chiếc lá cũng biết buồn”, và “mây ngàn năm còn sầu” để rồi nặng lòng nuối tiếc trước bao cảnh phồn hoa, nay đã hoang tàn bởi bao cuộc bể dâu của đời.

Cũng trong tâm thế đó, trước không gian Óc Eo với những hiện vật xưa còn lại, Trần Thị Xuân Bích đã gửi gắm nỗi buồn tiếc nuối trong bài thơ Óc Eo. Nhà thơ cảm nhận được biết bao điều “ngủ quên trong lòng đất” mà nặng lòng trăn trở, để rồi như nghe được âm thanh “gạch xô thành tiếng vọng”, băn khoăn cho những kiếp người “ở chốn phiêu bồng” và lặng lẽ:

“Cúi mình nghe đất thở

Nặng lòng tròn câu thơ”.

Với Phù Nam, Lê Quang Trạng nhận thấy, người đời có cách nhìn, cách nghĩ khác nhau về quá khứ trước thực tế của đời sống. Theo cảm nhận của nhà thơ, họ tìm đến “thành quách phồn hoa”, “tháp uy nghiêm”, “tượng thần dát vàng” đã chìm lấp ngàn năm với những mục đích khác nhau và đó cũng là lẽ thường. Thực tế, ít nhiều họ đã tìm được điều mong muốn:

“người đàn ông quê đào cho mình mớ bạc cắc đổi rượu chiều vơi

người thợ dự đoán cho mình mấy trăm viên gạch cổ

người truy tích tìm cho mình hai nghìn năm loang lổ

tôi tìm cho mình quyển sách mục nơi đâu”.

Ẩn chứa đằng sau những câu thơ trên là sự trăn trở của nhà thơ trước những gì còn mất của vương quốc Phù Nam. Người đời hôm nay tìm thấy dưới những “lớp phù sa màu mỡ của cánh đồng” là bao điều quý giá còn lại của người xưa, là “quyển sách mục” lưu lại một thời phát triển rực rỡ của Phù Nam đã bị chìm lấp sau lớp phù sa đó, để càng biết giữ gìn, tự hào về cái có từ ngàn xưa và tự hào hơn cái có bây giờ khi lịch sử dân tộc đã sang trang.

Ý thức sâu sắc về vùng đất Ba Thê, nơi lưu giữ bao điều linh thiêng của vương quốc Phù Nam, Phùng Chí Mưu đến với văn hóa Óc Eo, thắp Một nén hương lòng để mong tìm được “không gian bốn mặt” và băn khoăn tự hỏi: “Có phải mặt thứ tư trong trầm tích Óc Eo”. Nhà thơ cho rằng, những điều mất đi bởi bao cuộc bể dâu nay được hồi sinh, “nảy mầm trong những bức phù điêu”. Cũng từ mạch suy tưởng đó, những huyền thoại về một vương quốc xa xưa bị nhiều tầng thời gian của hàng ngàn năm bao phủ, nay được mở ra trước mắt nhà thơ, như là: “thành quách nguy nga tráng lệ”, “công nương hoàng tử mỹ miều”, “vua chúa anh minh”, “đạo quân thiện chiến”, “tao nhân mặc khách” và “thương cảng Ba Thê sầm uất, lẫy lừng”,… Nhà thơ tự hỏi, tự trả lời để giãi bày nỗi trăn trở thao thức của mình trước cảnh còn mất trong quá khứ xa xưa, để rồi càng trân trọng hơn về những điều còn lại:

“Đao đá ngàn cân ai treo vách núi

Bàn cờ tiên giăng sẵn thế quân cơ

Bàn chân tiên vẫn chờ người ướm thử

Suối nước tiên cho ai muốn thành tiên”.

Cách cảm nhận của nhà thơ về những giá trị lịch sử – văn hóa còn lại nói trên vừa chứa đựng sự tiếc nuối, vừa thấm đượm tinh thần nhân văn trong cách nhìn, cách nghĩ về quá khứ.

 

 

Nền văn hóa Óc Eo được phân bố chủ yếu tại khu vực miền Tây.

Về Óc Eo với tâm trạng bâng khuâng khi đứng trước cảnh thành quách sụp đổ, gạch đá trơ trọi, hoang tàn, Nguyễn Lập Em đã tưởng tưởng nên cuộc gặp gỡ với “người nghìn năm” để Hỏi chuyện người nghìn năm và qua đó, cảm nhận được nỗi niềm của người thiên cổ về chuyện thế sự và kiếp người giữa cuộc đời bao biến động. Nhà thơ như nghe được từ lòng đất Óc Eo lời nhắn gửi của người xưa mà nặng lòng trăn trở về số phận của con người và thời đại đã qua với mong muốn có được lời giải đáp:

“Ai hạnh phúc đắng cay

Ai vui buồn, thành bại

Và ai nữa hiền lương, nhân ái

Ai gây chiến tranh gieo thù, chuốc oán

Ai yêu thương ai

Và những ai chưa kịp sống đời mình?”.

Có thể nói, từ cuộc gặp gỡ với “người ngàn năm”, Nguyễn Lập Em đã suy ngẫm chuyện xưa để nói về chuyện nay, chuyện của muôn đời qua những vần thơ trăn trở thấm đượm tính nhân văn.

Cũng nhìn nay và nghĩ về xưa, với điểm nhìn hiện tại từ Một góc phương Nam, Trương Công Thuốt viết về quê hương mình không chỉ với niềm tự hào trước cảnh “đàn ong no mật”, “được mùa sen tràm”, “lúa trĩu trong vườn chín ngọt”… mà còn nặng lòng vấn vương khi nghĩ về vương quốc Phù Nam hàng ngàn năm trước, nghĩ về những kiếp người đã từng khai phá, dựng xây vùng đất này:

“Chừng như ngàn năm trước có một tộc người quây quần gò Ba Thê

Sinh con đẻ cháu

Bão bùn tràn

Người Phù Nam về đâu?”

Còn ở bài thơ Đêm Óc Eo, Trần Hữu Phước nghe huyền thoại về vương quốc Phù Nam một thời phát triển rực rỡ đầy kiêu hãnh bị chôn vùi, “chìm trong lòng đất lạnh” với tâm trạng nuối tiếc. Trước những gì còn lại qua bao biến động dữ dội, nhà thơ không nén được sự xót xa và thốt lên:

“Chân núi mòn sóng biển

Vỏ sò trắng cánh đồng

Nhìn những viên gạch hồng

Xót xa thành quách cổ”.

Suy ngẫm về thời đại đã qua trong nỗi niềm bâng khuâng, thương nhớ, nhà thơ thêm tự hào về đất và người Óc Eo anh hùng thủy chung và cuộc sống “vui sầm uất” của Óc Eo hiện tại.

Khác với Trần Hữu Phước, từ điểm nhìn hiện tại trước những vẻ đẹp thanh bình của một miền quê khiến ai đến đây đều cảm thấy “hương tình ấm đượm buổi chiều quê” và “lòng dạ ngẩn ngơ bay”, khi Về Thoại Sơn, Nguyễn Văn Khánh nghĩ về xã hội xa xưa trước những di sản văn hóa của vương quốc Phù Nam. Nhà thơ cảm nhận được cái hồn đất, hồn người đọng lại trong cảnh vật đó:

“Anh theo em về vùng Ba Thê …

Linh Sơn Tự nép mình bên đỉnh núi

Gò Cây Thị rêu phong dấu cũ

Viên gạch nào cũng nhắc gợi ngày xa…”.

Cũng cùng tâm trạng đó, dù chỉ Một thoáng Thoại Sơn, Hữu Nhân không chỉ tự hào, xao xuyến với cảnh tình hiện tại ở nơi đây như: “hoa khoe sắc thắm dưới hàng cây xanh”, “hương lúa chín” và “nụ cười em”, mà còn trĩu nặng nỗi buồn trước những gì còn lại của Óc Eo xưa:

“Ai xuôi ta ghé Vọng Đông

Mà lòng trĩu nặng cánh đồng Ba Thê

Một Óc Eo tự ngàn xưa

Với Linh Sơn Tự nắng thưa thớt chiều”.

Đến với Thoại Sơn, Trần Tâm đã có cách tiếp cận riêng khi Tâm tình với Thoại Sơn, nhà thơ gọi đối tượng tâm tình Óc Eo là “em”. Với cách gọi này, nhà thơ quan niệm đến với Óc Eo là đến với người thân yêu và thực tế, đã tạo được sự kết nối vô hình của mối quan hệ gắn bó rất đỗi thân tình để chia sẻ nỗi buồn thương về một thời dĩ vãng. Bằng sự kết nối đó, nhà thơ như thấu hiểu nỗi gian nan vất vả trong cảnh “máu trộn bùn non” và như nghe được “âm vang một thời của cha ông đi mở đất”. Lời thơ cũng là lời tâm tình nhắn gửi với người đời xin hãy trân trọng, giữ gìn được những điều thiêng liêng còn lại của vương quốc Phù Nam một thời vàng son:

“bao bí ẩn vùi mình trong lớp đá xanh rêu

thành quách tiêu điều

thấp thoáng hương hồn Phù Nam vương quốc

ơi! Óc Eo

hiện diện của em nói lên điều gì giữa đời thường quay quắt

em là có thật

thì xin hãy nhẹ nhàng đừng làm đất mẹ Thoại Sơn đau!”.

Khi tìm dấu xưa Trên thềm cổ Óc Eo, Bùi Văn Bồng đã cảm nhận được di vật  Óc Eo còn đâu đây trong “cát mịn bùn non”, “trong đất đá phủ dày”,… nó rất xa mà cũng rất gần với cuộc sống hôm nay:

“Ấm nồng hiện vật trên tay

Nối xưa sau với đủ đầy riêng chung

Trong âm thanh của vô cùng

Đất nâu giữ lại một vùng quê riêng

Những tiếng cồng, những tiếng chiêng

Kiếm cung giữ cõi, lời thiêng giữ nhà”.

Hơn hết, với cái nhìn trân trọng, tự hào đối với dấu xưa đã tìm được, nhà thơ khẳng định những hiện vật còn lại dù trải qua thời gian đằng đẳng, nắng mưa, gió bụi dập vùi nhưng vẫn hiện rõ dấu tích, công lao của các bậc tiền nhân đã dày công khai phá dựng xây miền đất này.

3. Nhìn chung, qua tìm hiểu nguồn thi hứng về văn hóa Óc Eo, chúng tôi nhận thấy, số bài thơ được viết từ nguồn thi hứng này tuy chưa nhiều nhưng đã thể hiện được những nỗi niềm tình cảm và nhận thức của con người hôm nay về quá khứ xa xưa. So với những nguồn thi hứng khác của thơ ĐBSCL sau năm 1975, nguồn thi hứng về văn hóa Óc Eo như một dòng chảy lặng lẽ, thâm trầm và rất da diết, bền bỉ. Nó có sức gợi và làm xao xuyến nỗi niềm của thi nhân để từ đó với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, họ có thể sáng tạo nên những vần thơ hay. Ở mức độ nào đó, điều này ảnh hưởng đến sức lan tỏa của di sản văn hóa Óc Eo trong đời sống dân tộc. Chúng tôi những mong dòng chảy này sẽ tiếp tục bồi đắp nhiều hơn cho phù sa thơ ĐBSCL để trên cơ sở đó, càng ngày càng có thêm nhiều bài thơ hay bắt nguồn từ thi hứng về di sản văn hóa Óc Eo.

Cần Thơ, 9/2021

         N.L.Đ

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1 .Nhiều tác giả (2006), 30 năm thơ An Giang, Văn nghệ An Giang.

2. Nhiều tác giả (2008), Thơ viết về An Giang, Văn nghệ An Giang.

3. Nhiều tác giả (2020), Tự dưng mà nhớ An Giang, NXB Văn hóa – Văn nghệ và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật An Giang.

4. Nhiều tác giả (2021), Thơ Đồng bằng sông Cửu Long năm 2020(Tác phẩm từ cuộc thi thơ Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ VI, năm 2020), NXB Văn hóa – Văn nghệ và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật An Giang.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm