TIN TỨC

Tình đất, tình người trong thơ Đoàn Thị Ký

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-05-30 11:49:02
mail facebook google pos stwis
968 lượt xem

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                     Nguyễn Văn Hòa

 

 Đoàn Thị Ký làm thơ từ khá sớm và tiếng thơ của chị cũng được nhiều người biết đến. Bởi chị có một số bài thơ như: Nửa vòng bông gạo, Thẫm chiều tạo được dấu ấn với bạn đọc bởi lời thơ giản dị, chân chất nhưng đầy da diết, yêu thương.

Thơ Đoàn Thị Ký luôn hướng về những giá trị truyền thống, về nguồn cội, quê hương với lời cảm tạ chân thành nhất. Thơ chị luôn là tiếng nói trung thực của bản ngã với những suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về những chặng đường mà chị đã trải qua.

Là người có điều kiện đi và sống ở nhiều nơi, từng kinh qua nhiều công việc khác nhau nên Đoàn Thị Ký có vốn tư liệu thực tiễn khá dồi dào. Đây chính điều kiện thuận lợi để chị giúp chị có nguồn cảm hứng, tạo chất xúc tác cho hành trình sáng tạo thi ca.

Dọc theo hành trình thơ Đoàn Thị Ký, từ tập Dòng sữa nuôi tôi ( In chung năm 1975) đến Cô gái và cầu vồng (1995), rồi Nửa vòng bông gạo (2001) và Hà Nội thời có nhau (2010), người đọc sẽ nhận ra điểm nổi bật và cũng là nét riêng của thơ chị đó là “nhật ký hành trình”: Đời - Người - những vùng đất mà nhà thơ đã đi qua. Vì thế, trong thơ Đoàn Thị Ký, xuất hiện hầu khắp các địa danh của mọi miền đất nước. Nhưng nhà thơ dành tình cảm nhiều nhất vẫn là Hà Nội. Tất cả được chị ghi lại bằng thơ với những dấu ấn riêng theo cảm quan và sự rung động của trái tim người đàn bà đa cảm.

Ở đó, nhà thơ thỏa sức tung tẩy chuyện của người, của mình, của đời với bao nỗi thương nhớ, khắc khoải, da diết khôn nguôi. Người làm thơ đi nhiều là lợi thế, nhưng ghi lại bằng thơ trên từng chặng đường, từng địa danh mà mình đã đi qua thì ít người làm được như Đoàn Thị Ký. Một Hà Giang với nỗi nhớ ngút ngàn: “Sông Lô chiều man mác/ Rơi từng ngày cuối năm/ Ai có về dưới đấy/ Cho ta lời nhắn thăm”; Một ngã tư Bảy Hiền ở đất phương Nam hiện về trong chị là hình ảnh những con người sống hào phóng, nghĩa tình, giàu nghĩa khí: “Ríu ran lắm người dưng ran ríu/ Nhường nhau đi trước, trước không đành/ Thương mến ngã tư người hiền thế/ Hay là người biết khế còn chanh…”; Một Tháp Mười với nhiều kênh rạch, xuồng gắn máy, xuồng chèo tay và sự hào sảng trước cuộc sống lao động với gió nước đặc trưng vùng sông nước: “Tôi kịp giấu bông sen trước ngực/ Gió đổi chiều hay dòng kinh xoay hướng khác, thảng thốt nhìn gió bứt tình tôi”; một Lào Cai mây trắng ngang trời, chút lạ lẫm của Sa Pa làm nên điều thú vị, để rồi người thơ ấy không dấu vẻ kiêu ngầm:  “Ngẩng mặt Hoàng Liên trào thi hứng/ Ngoái Hồng Hà má lựng bồ quân”; một Tây Nguyên đặc trưng: “Đác tiếng dân tộc Ê Đê, Ba Na là nước/ Miền đất điệp điệp cái tên: Đácglay, Đáchà, Đácmin, Đácrlấp... gợi nước đầy buôn, đầy làng/ Nước sinh ra từ cánh rừng/ Cánh rừng ngậm trầm tinh hoa của nước/ Đàn tơ-rưng làm bằng ống lồ ô, thanh âm không trong như tiếng hạc, mà như thác đổ, như suối reo...”; và với mảnh đất thiêng Hà Nội thì có nhiều điều để Đoàn Thị Ký gửi gắm những nỗi suy tư, khát vọng, niềm tin của mình vào đó (chị có hẳn 1 tập Hà Nội thời có nhau gồm 47 bài thể hiện rõ nét thái độ, quan điểm, tình cảm của nhà thơ về đất và người ở nơi đây).

Đoàn Thị Ký viết về những điều xung quanh mà chị nhìn thấy, chị cảm nhận, suy tưởng. Nhưng cũng từ những điều giản đơn, gần gũi, quen thuộc ấy lại mở ra những chân trời, những chiêm cảm sâu sắc về cuộc đời. Từ tên những con phố của Hà Nội, hay hình ảnh những người đàn bà, hạt vừng, cọng rau dớn, dòng sông tháng ba, lũy tre làng: “Hoa bưởi thơm như ướm/ Mùa xuân lên tre làng”... cũng đều để lại cho chị những suy ngẫm và liên tưởng đến cuộc sống cõi người.

Thơ ca chính là hình thức đặc biệt để con người tư duy và cảm nhận cuộc sống. Đoàn Thị Ký đã gửi vào thơ nỗi lòng thổn thức với cái chung và cả những điều riêng. Quyển sổ hộ khẩu ngỡ rằng chẳng có gì là thơ, vì một thời nó mang dấu ấn xã hội, gắn với lương thực, thực phẩm… vậy mà nó thành thơ, nhờ trải nghiệm từ thực tiễn đời mình trước cuộc sống thời hiện đại, mọi thứ xảy ra chóng vánh, người ta thường hay quên quá khứ, đặt nặng vấn đề tiền bạc, quyền lực. Và điều ấy dẫn đến bao bất cập, không hay, vô cảm lại mặc nhiên có đất sống. Điều hay, lẽ phải đôi lúc bị nhập nhòa. “Thời cơ chế cho nhau,/ Con người đậm dấu son quyền lực// Lòng sung/ Lòng vả/ Nhạt màu!” (Ngày nhận giấy báo không được nhập khẩu Hà Nội).

Trái tim nhạy cảm, dễ xúc động nên điều gì xảy ra quanh chị cũng khiến tâm hồn xao động, thậm chí chị đau như chính chị là người trong cuộc. Bài thơ Má đi kiện biết thu Hà Nội viết về một bà má từ tận Bến Tre ra Hà Nội kêu oan về đất đai, đau đáu mà chua chát. Đau đáu bởi con phố Mai Xuân Thưởng có Phòng tiếp dân một thời, nằm đối diện Phủ Chủ tịch và Lăng Bác qua một con đường, chua chát bởi :

Mùa thu lạ quá con ơi/ Đêm qua má ngủ ngoài trời thấy sương/ Sáng ra người nhẹ ttơ vương/ Dù đang đi kiện trăm đường cam go/ Con đừng lo má tay vo/ Má có lý lẽ/ Bác Hồ thương dân/ Ở đây Lăng Bác rất gần/ Đêm đêm yên tĩnh khắp sân sáng lòa.../ Đất nhà má đất ông cha/ Trồng lúa lúa tốt, trồng dừa dừa sai!/ Mấy người lấy cớ đất đai/ Liên doanh này nọ, dài dài chia nhau/ Họ chừa lại cái chũm cau/ Tưởng má ít chữ nông sâu biết gì/ Tỉnh không đòi được má đi/ Trung ương chưa giải quyết, má ở lỳ tháng nay!/ Đi kiện má lại gặp may/ Biết thu Hà Nội không bay trên trời,/ Sáng ra người tỉnh cả người/ Má tin công lý vàng mười sáng soi.// Lặng theo lời má là tôi/ Với thu Hà Nội rơi rơi giọt buồn”.

Những lời chất phác, gan ruột của má được liệt kê ra lại gợi lên cho người đọc về thực trạng nhói lòng đã và đang xảy ra ở một số nơi. Vẫn còn đó những nỗi oan khiên, buộc họ phải kêu cứu đến tận trung ương và không nguôi hy vọng…

Thơ Đoàn Thị Ký nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm chất trữ tình khi thể hiện tình cảm của mình với quê hương, đất nước, bạn bè và những người thân yêu ruột thịt. Nhà thơ cũng dành những trang viết về mẹ, về cha bằng tình cảm của một đứa con đã hiểu lẽ nông sâu của cuộc đời. Lời thơ vì thế lại càng trầm tư, da diết và xốn xang hơn. Lời tâm sự của đứa con với người cha trong bài Gửi cha nghe có gì đó mang nhiều nỗi ưu tư, trắc ẩn: “Đồng bạc lẻ quanh vườn nhặt nhạnh/ Cha tặng con gái yêu đôi cánh,/ Lên cao vòm trời/ Hương cau dạo nhờ cỗ xe thần gió/ Lửng thửng mây/ dưới cánh bay/ dây tơ hồng/ Cha gỡ dây tơ hồng/ Chiếc lá bay ngập ngừng/ Bồ đài lá mít/ Cạn kiệt ông xanh/ Chệnh choạng đôi chân cây khù khì,/ Cái nhện âm i/ Sông Ngân xa bờ lênh lênh nắng/ Có dải mây như tóc cha bạc trắng/ Chưa yên lòng vì con”.

Đi qua những thăng trầm của thời cuộc, trải qua nhiều công việc, sống và trải nghiệm ở nhiều môi trường khác nhau đã cho chị nhiều vốn sống để ứng phó, thích nghi với đời: “Những sợi tóc dài đen/ Gáo nước lạ gội đầu lại rụng/ Chưa kịp rẽ ngôi dịu vầng trán bướng/ Dóng dả còi xe// Giá anh hỏi sau mỗi chuyến được gì? Em rành rẽ trả lời. Và khép cửa.../ Nhưng sao anh cứ ân cần bền bỉ/ Cất dùm em những sợi tóc mềm” (Tóc chiêm bao).

Giờ đây, khi chị đã ở vào tuổi xế chiều của đời mình, bao cảnh đời dâu bể, những biến cố thời đại được Đoàn Thị Ký nhìn nhận sâu sắc hơn. Nhà thơ khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng chủ đạo vẫn hướng về sự nhân văn nhân ái. Chứng kiến cảnh lao động nhọc nhằn, lòng chị lại trỗi dậy ký ức của những năm tháng đã qua, sự khổ ải để có miếng ăn trở thành nỗi đau thường trực, vì thế nhà thơ không khỏi ngậm ngùi: “Tay cấy lúa nước bốc hơi hầm hập/ Thương lúa giữa trời chả nón che thân/ Bóng lúa nương nhau hàng hàng ngay thẳng/ Một cánh cò bay vội dáng phân vân...” (Hạt nắng hạt vàng).

Trong cái nhìn về thời gian, nhà thơ bộc lộ nhiều nỗi trăn trở day dứt, đôi lúc chị tự vấn với chính bản thân mình trước thực tại: “Trên dòng sông ai bắc cầu mây?/ Lúa chiêm chín hạt chảy làm sắc nắng/ Tôi ngỡ mặt trời đi vắng/ Dưới là sông trên ấy cánh đồng/ Hạt phù sa phải năm nắng mười sương/ Mới nên quả, nên bông, nên nụ cười tươi thắm/ Câu hát nghĩa tình níu cong đòn gánh/ Ai cuối dòng sông tôi gửi gió thơm đồng!/ ... Năm tháng rồi qua vô tình mải miết/ Không biết trong mình có hạt phù sa/ Không biết trong mình ăm ắp lời ca/ Từ thuở trong nôi.../ Dòng sông thì thầm với tôi như thế!” (Thầm thì dòng sông).

Nhìn trên tổng thể, thơ Đoàn Thị Ký vẫn thủy chung với thi pháp thơ truyền thống nhưng vẫn gây được ấn tượng cho người đọc bởi chị có khả năng vận dụng từ ngữ, hình ảnh, tứ thơ của mình một cách ấn tượng. Người đi soi bóng mặt hồ, một bài thơ ngắn nhưng dung chứa và chuyển tải được nhiều điều về mảnh đất và con người Hà thành với những nét đặc trưng, phẩm chất đáng trân quý. “Thầm lại nét/ Hào hoa/ Thanh lịch/ Trong từng lời nói, dáng đi// Không cho riêng mình/ Cho muôn năm Hà Nội/ Còn thơm cốm ủ lá sen/ Thu về.../ Nụ hôn gió tê tê/ Sau đêm dài lắng lại/ Tất bật/ Ưu tư/ Bon chen/ Khôn dại.../ Tơ liễu thêu tranh gấm mặt hồ/ Cõi người tự diễn chẳng bầu sô”.

Mỗi câu chữ đều dạt dào cảm xúc, chứa đựng tình cảm chân thành, hồn hậu, giản dị nhưng đầy chất trí tuệ, biểu đạt đến tận cùng nỗi lòng cũng như những mơ ước, khát vọng của chính nhà thơ. Vẫn mượn lời thì thầm của dòng sông, nhà thơ lại mở ra một sự liên tưởng khác, mang nhiều ý nghĩa về dòng sông đời: “Trách cứ gì nếu bờ này có lở/ Thì bờ kia như ngực trẻ căng tròn/ Bắt đầu từ đâu tôi chưa đến tận nguồn/ Chỉ biết đến làng tôi, sông như người mắc nợ/ Tháng ba hoa gạo đỏ/ Tháng sáu về bông trắng lòng tay”.

Những câu thơ nhẹ nhàng mang tính triết lý khi nhà thơ có sự xâu chuỗi, nhìn nhận sự việc, con người trong thời đại mới với bao biến đổi khó lường. Vì thế Đoàn Thị Ký tỏ ra hoài nghi.

Nhà đổ tận đâu đâu/ Xòe bàn tay - Bàn tay mình vẫn sạch!/ Khó day mặt kẻ gây tội ác/ Những liên minh/ Vặt trí tuệ loài người như vặt lông gà, lông vịt.// Trí tuệ hướng con người vươn xa/ Trí khôn níu con người về lại/ Cái bóng của mình/ Cái bóng hằn lên da hổ/ trong câu chuyện cổ nước nhà/ Cái thiện phải lấy dây thừng ghì cái ác/ Ghì thật chặt/ Mới hy vọng sự mô phỏng thiên nhiên trên luống cày thời đại/ Làm bác trâu già mọc lại hàm răng…”(Thời đại và trí khôn).

Cái tôi trữ tình trong thơ Đoàn Thị Ký là cái tôi hướng nội, suy tư, nghiền ngẫm về tình yêu và bản chất của sự sống. Có một số bài thơ của chị được người đọc yêu thích vì nó chạm đến cõi sâu thẳm trong trái tim với đầy ắp những tâm tư, khát vọng rất đỗi đời thường.

Có lần sợi bông gạo bay/ Như chiếc chong chóng xoay xoay nửa vòng// Tôi đưa tay đón và mong/ Đâu ngờ gió tự vân mòng đẩy ra// Thế là bông gạo bay xa/ Nửa vòng chong chóng đã hòa thinh không...// Một mai ngọn gió thổi nồng/ Có còn bông gạo nửa vòng bay bay? (Nửa vòng bông gạo). Cái nhìn độc đáo về cảnh vật của thế giới tự nhiên làm cho người đọc bất ngờ và cảm thấy thú vị. Nhà thơ lắng nhìn và quan sát tỉ mỉ bông gạo bay và rồi suy ngẫm về chiều tương lai bằng một sự nghi vấn mà ở đó có những nuối tiếc, bâng khuâng.

Ở bài Thẫm chiều, từng lời thơ đọc lên nghe có điều gì đó hẫng hụt, man mác, rưng rưng. Chiều tim tím núi Tràng Đà/ Tôi tim tím nụ hoa cà bến sông// Có người khách cõi hư không/ Chờ con đò vãn bóng hồng nẻo sang.//Dòng sông vẫn chẳng tày gang/ Bè xuôi gối sóng đêm vàng đứt neo//Trông người... nào có người theo/ Trông trời... đôi hạt trong veo cách vời// Vẳng lên một tiếng - Đò ơi/ Sang sông lỡ chuyến, khách tôi thẫm chiều.

Đoàn Thị Ký là nhà thơ lặng lẽ nhưng say mê và sống hết mình với thi ca và bè bạn. Hành trình thơ và hành trình cuộc đời của chị dường như có sự đối sánh và song hành nhau. Ở đó, nhà thơ đã trải lòng mình trước cuộc sống để nhận thức, chiêm nghiệm, tự vấn, soi tỏ để củng cố niềm tin và sưởi ấm lòng người. Bởi hơn ai hết, Đoàn Thị Ký đã đem tất cả tấm chân tình của mình để trang trải với đời với người. Những gì chị có được hôm nay là cả một quá trình sống, làm việc nghiêm túc hết mình, sự dấn thân không mệt mỏi vì niềm đam mê thi ca./.

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm
Nguyễn Ngọc Hạnh - Hồn thơ reo mãi phía làng
Bài viết của Hoàng Thụy Anh và phóng sự ảnh của Nguyên Hùng
Xem thêm
‘Bút chiến’ thời Tự Lực Văn Đoàn
Trước khi được giải Lý luận phê bình của Hội Nhà văn năm nay thì “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do” đã được chú ý trong cộng đồng đọc. “Câu chuyện cũ nhưng cách tiếp cận mới, khảo tả công phu, chưa kể những dẫn chứng “đấu đá” hậu trường văn chương, đọc rất vui”, độc giả bình luận.
Xem thêm
Khối đa diện “Mộng đế vương”
Nhà văn Nguyễn Trường chọn xứ đạo ở Cồn Phụng của ông Nguyễn Thành Nam, đạo vừa vừa, gọi là Đạo Dừa
Xem thêm
Hồn quê trong một sắc thơ miệt vườn
Nhà thơ Kiên Giang (1929-2014) - đúng ra năm sinh: 1927 - tên thật Trương Khương Trinh (bút danh khác: Hà Huy Hà, Ngân Hà, Trinh Ngọc, Cửu Long Giang…, gốc người làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là Kiên Giang).
Xem thêm