TIN TỨC

Tình đất, tình người trong thơ Đoàn Thị Ký

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-05-30 11:48:10
mail facebook google pos stwis
2086 lượt xem

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                     Nguyễn Văn Hòa

 

 Đoàn Thị Ký làm thơ từ khá sớm và tiếng thơ của chị cũng được nhiều người biết đến. Bởi chị có một số bài thơ như: Nửa vòng bông gạo, Thẫm chiều tạo được dấu ấn với bạn đọc bởi lời thơ giản dị, chân chất nhưng đầy da diết, yêu thương.

Thơ Đoàn Thị Ký luôn hướng về những giá trị truyền thống, về nguồn cội, quê hương với lời cảm tạ chân thành nhất. Thơ chị luôn là tiếng nói trung thực của bản ngã với những suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về những chặng đường mà chị đã trải qua.

Là người có điều kiện đi và sống ở nhiều nơi, từng kinh qua nhiều công việc khác nhau nên Đoàn Thị Ký có vốn tư liệu thực tiễn khá dồi dào. Đây chính điều kiện thuận lợi để chị giúp chị có nguồn cảm hứng, tạo chất xúc tác cho hành trình sáng tạo thi ca.

Dọc theo hành trình thơ Đoàn Thị Ký, từ tập Dòng sữa nuôi tôi ( In chung năm 1975) đến Cô gái và cầu vồng (1995), rồi Nửa vòng bông gạo (2001) và Hà Nội thời có nhau (2010), người đọc sẽ nhận ra điểm nổi bật và cũng là nét riêng của thơ chị đó là “nhật ký hành trình”: Đời - Người - những vùng đất mà nhà thơ đã đi qua. Vì thế, trong thơ Đoàn Thị Ký, xuất hiện hầu khắp các địa danh của mọi miền đất nước. Nhưng nhà thơ dành tình cảm nhiều nhất vẫn là Hà Nội. Tất cả được chị ghi lại bằng thơ với những dấu ấn riêng theo cảm quan và sự rung động của trái tim người đàn bà đa cảm.

Ở đó, nhà thơ thỏa sức tung tẩy chuyện của người, của mình, của đời với bao nỗi thương nhớ, khắc khoải, da diết khôn nguôi. Người làm thơ đi nhiều là lợi thế, nhưng ghi lại bằng thơ trên từng chặng đường, từng địa danh mà mình đã đi qua thì ít người làm được như Đoàn Thị Ký. Một Hà Giang với nỗi nhớ ngút ngàn: “Sông Lô chiều man mác/ Rơi từng ngày cuối năm/ Ai có về dưới đấy/ Cho ta lời nhắn thăm”; Một ngã tư Bảy Hiền ở đất phương Nam hiện về trong chị là hình ảnh những con người sống hào phóng, nghĩa tình, giàu nghĩa khí: “Ríu ran lắm người dưng ran ríu/ Nhường nhau đi trước, trước không đành/ Thương mến ngã tư người hiền thế/ Hay là người biết khế còn chanh…”; Một Tháp Mười với nhiều kênh rạch, xuồng gắn máy, xuồng chèo tay và sự hào sảng trước cuộc sống lao động với gió nước đặc trưng vùng sông nước: “Tôi kịp giấu bông sen trước ngực/ Gió đổi chiều hay dòng kinh xoay hướng khác, thảng thốt nhìn gió bứt tình tôi”; một Lào Cai mây trắng ngang trời, chút lạ lẫm của Sa Pa làm nên điều thú vị, để rồi người thơ ấy không dấu vẻ kiêu ngầm:  “Ngẩng mặt Hoàng Liên trào thi hứng/ Ngoái Hồng Hà má lựng bồ quân”; một Tây Nguyên đặc trưng: “Đác tiếng dân tộc Ê Đê, Ba Na là nước/ Miền đất điệp điệp cái tên: Đácglay, Đáchà, Đácmin, Đácrlấp... gợi nước đầy buôn, đầy làng/ Nước sinh ra từ cánh rừng/ Cánh rừng ngậm trầm tinh hoa của nước/ Đàn tơ-rưng làm bằng ống lồ ô, thanh âm không trong như tiếng hạc, mà như thác đổ, như suối reo...”; và với mảnh đất thiêng Hà Nội thì có nhiều điều để Đoàn Thị Ký gửi gắm những nỗi suy tư, khát vọng, niềm tin của mình vào đó (chị có hẳn 1 tập Hà Nội thời có nhau gồm 47 bài thể hiện rõ nét thái độ, quan điểm, tình cảm của nhà thơ về đất và người ở nơi đây).

Đoàn Thị Ký viết về những điều xung quanh mà chị nhìn thấy, chị cảm nhận, suy tưởng. Nhưng cũng từ những điều giản đơn, gần gũi, quen thuộc ấy lại mở ra những chân trời, những chiêm cảm sâu sắc về cuộc đời. Từ tên những con phố của Hà Nội, hay hình ảnh những người đàn bà, hạt vừng, cọng rau dớn, dòng sông tháng ba, lũy tre làng: “Hoa bưởi thơm như ướm/ Mùa xuân lên tre làng”... cũng đều để lại cho chị những suy ngẫm và liên tưởng đến cuộc sống cõi người.

Thơ ca chính là hình thức đặc biệt để con người tư duy và cảm nhận cuộc sống. Đoàn Thị Ký đã gửi vào thơ nỗi lòng thổn thức với cái chung và cả những điều riêng. Quyển sổ hộ khẩu ngỡ rằng chẳng có gì là thơ, vì một thời nó mang dấu ấn xã hội, gắn với lương thực, thực phẩm… vậy mà nó thành thơ, nhờ trải nghiệm từ thực tiễn đời mình trước cuộc sống thời hiện đại, mọi thứ xảy ra chóng vánh, người ta thường hay quên quá khứ, đặt nặng vấn đề tiền bạc, quyền lực. Và điều ấy dẫn đến bao bất cập, không hay, vô cảm lại mặc nhiên có đất sống. Điều hay, lẽ phải đôi lúc bị nhập nhòa. “Thời cơ chế cho nhau,/ Con người đậm dấu son quyền lực// Lòng sung/ Lòng vả/ Nhạt màu!” (Ngày nhận giấy báo không được nhập khẩu Hà Nội).

Trái tim nhạy cảm, dễ xúc động nên điều gì xảy ra quanh chị cũng khiến tâm hồn xao động, thậm chí chị đau như chính chị là người trong cuộc. Bài thơ Má đi kiện biết thu Hà Nội viết về một bà má từ tận Bến Tre ra Hà Nội kêu oan về đất đai, đau đáu mà chua chát. Đau đáu bởi con phố Mai Xuân Thưởng có Phòng tiếp dân một thời, nằm đối diện Phủ Chủ tịch và Lăng Bác qua một con đường, chua chát bởi :

Mùa thu lạ quá con ơi/ Đêm qua má ngủ ngoài trời thấy sương/ Sáng ra người nhẹ ttơ vương/ Dù đang đi kiện trăm đường cam go/ Con đừng lo má tay vo/ Má có lý lẽ/ Bác Hồ thương dân/ Ở đây Lăng Bác rất gần/ Đêm đêm yên tĩnh khắp sân sáng lòa.../ Đất nhà má đất ông cha/ Trồng lúa lúa tốt, trồng dừa dừa sai!/ Mấy người lấy cớ đất đai/ Liên doanh này nọ, dài dài chia nhau/ Họ chừa lại cái chũm cau/ Tưởng má ít chữ nông sâu biết gì/ Tỉnh không đòi được má đi/ Trung ương chưa giải quyết, má ở lỳ tháng nay!/ Đi kiện má lại gặp may/ Biết thu Hà Nội không bay trên trời,/ Sáng ra người tỉnh cả người/ Má tin công lý vàng mười sáng soi.// Lặng theo lời má là tôi/ Với thu Hà Nội rơi rơi giọt buồn”.

Những lời chất phác, gan ruột của má được liệt kê ra lại gợi lên cho người đọc về thực trạng nhói lòng đã và đang xảy ra ở một số nơi. Vẫn còn đó những nỗi oan khiên, buộc họ phải kêu cứu đến tận trung ương và không nguôi hy vọng…

Thơ Đoàn Thị Ký nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm chất trữ tình khi thể hiện tình cảm của mình với quê hương, đất nước, bạn bè và những người thân yêu ruột thịt. Nhà thơ cũng dành những trang viết về mẹ, về cha bằng tình cảm của một đứa con đã hiểu lẽ nông sâu của cuộc đời. Lời thơ vì thế lại càng trầm tư, da diết và xốn xang hơn. Lời tâm sự của đứa con với người cha trong bài Gửi cha nghe có gì đó mang nhiều nỗi ưu tư, trắc ẩn: “Đồng bạc lẻ quanh vườn nhặt nhạnh/ Cha tặng con gái yêu đôi cánh,/ Lên cao vòm trời/ Hương cau dạo nhờ cỗ xe thần gió/ Lửng thửng mây/ dưới cánh bay/ dây tơ hồng/ Cha gỡ dây tơ hồng/ Chiếc lá bay ngập ngừng/ Bồ đài lá mít/ Cạn kiệt ông xanh/ Chệnh choạng đôi chân cây khù khì,/ Cái nhện âm i/ Sông Ngân xa bờ lênh lênh nắng/ Có dải mây như tóc cha bạc trắng/ Chưa yên lòng vì con”.

Đi qua những thăng trầm của thời cuộc, trải qua nhiều công việc, sống và trải nghiệm ở nhiều môi trường khác nhau đã cho chị nhiều vốn sống để ứng phó, thích nghi với đời: “Những sợi tóc dài đen/ Gáo nước lạ gội đầu lại rụng/ Chưa kịp rẽ ngôi dịu vầng trán bướng/ Dóng dả còi xe// Giá anh hỏi sau mỗi chuyến được gì? Em rành rẽ trả lời. Và khép cửa.../ Nhưng sao anh cứ ân cần bền bỉ/ Cất dùm em những sợi tóc mềm” (Tóc chiêm bao).

Giờ đây, khi chị đã ở vào tuổi xế chiều của đời mình, bao cảnh đời dâu bể, những biến cố thời đại được Đoàn Thị Ký nhìn nhận sâu sắc hơn. Nhà thơ khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng chủ đạo vẫn hướng về sự nhân văn nhân ái. Chứng kiến cảnh lao động nhọc nhằn, lòng chị lại trỗi dậy ký ức của những năm tháng đã qua, sự khổ ải để có miếng ăn trở thành nỗi đau thường trực, vì thế nhà thơ không khỏi ngậm ngùi: “Tay cấy lúa nước bốc hơi hầm hập/ Thương lúa giữa trời chả nón che thân/ Bóng lúa nương nhau hàng hàng ngay thẳng/ Một cánh cò bay vội dáng phân vân...” (Hạt nắng hạt vàng).

Trong cái nhìn về thời gian, nhà thơ bộc lộ nhiều nỗi trăn trở day dứt, đôi lúc chị tự vấn với chính bản thân mình trước thực tại: “Trên dòng sông ai bắc cầu mây?/ Lúa chiêm chín hạt chảy làm sắc nắng/ Tôi ngỡ mặt trời đi vắng/ Dưới là sông trên ấy cánh đồng/ Hạt phù sa phải năm nắng mười sương/ Mới nên quả, nên bông, nên nụ cười tươi thắm/ Câu hát nghĩa tình níu cong đòn gánh/ Ai cuối dòng sông tôi gửi gió thơm đồng!/ ... Năm tháng rồi qua vô tình mải miết/ Không biết trong mình có hạt phù sa/ Không biết trong mình ăm ắp lời ca/ Từ thuở trong nôi.../ Dòng sông thì thầm với tôi như thế!” (Thầm thì dòng sông).

Nhìn trên tổng thể, thơ Đoàn Thị Ký vẫn thủy chung với thi pháp thơ truyền thống nhưng vẫn gây được ấn tượng cho người đọc bởi chị có khả năng vận dụng từ ngữ, hình ảnh, tứ thơ của mình một cách ấn tượng. Người đi soi bóng mặt hồ, một bài thơ ngắn nhưng dung chứa và chuyển tải được nhiều điều về mảnh đất và con người Hà thành với những nét đặc trưng, phẩm chất đáng trân quý. “Thầm lại nét/ Hào hoa/ Thanh lịch/ Trong từng lời nói, dáng đi// Không cho riêng mình/ Cho muôn năm Hà Nội/ Còn thơm cốm ủ lá sen/ Thu về.../ Nụ hôn gió tê tê/ Sau đêm dài lắng lại/ Tất bật/ Ưu tư/ Bon chen/ Khôn dại.../ Tơ liễu thêu tranh gấm mặt hồ/ Cõi người tự diễn chẳng bầu sô”.

Mỗi câu chữ đều dạt dào cảm xúc, chứa đựng tình cảm chân thành, hồn hậu, giản dị nhưng đầy chất trí tuệ, biểu đạt đến tận cùng nỗi lòng cũng như những mơ ước, khát vọng của chính nhà thơ. Vẫn mượn lời thì thầm của dòng sông, nhà thơ lại mở ra một sự liên tưởng khác, mang nhiều ý nghĩa về dòng sông đời: “Trách cứ gì nếu bờ này có lở/ Thì bờ kia như ngực trẻ căng tròn/ Bắt đầu từ đâu tôi chưa đến tận nguồn/ Chỉ biết đến làng tôi, sông như người mắc nợ/ Tháng ba hoa gạo đỏ/ Tháng sáu về bông trắng lòng tay”.

Những câu thơ nhẹ nhàng mang tính triết lý khi nhà thơ có sự xâu chuỗi, nhìn nhận sự việc, con người trong thời đại mới với bao biến đổi khó lường. Vì thế Đoàn Thị Ký tỏ ra hoài nghi.

Nhà đổ tận đâu đâu/ Xòe bàn tay - Bàn tay mình vẫn sạch!/ Khó day mặt kẻ gây tội ác/ Những liên minh/ Vặt trí tuệ loài người như vặt lông gà, lông vịt.// Trí tuệ hướng con người vươn xa/ Trí khôn níu con người về lại/ Cái bóng của mình/ Cái bóng hằn lên da hổ/ trong câu chuyện cổ nước nhà/ Cái thiện phải lấy dây thừng ghì cái ác/ Ghì thật chặt/ Mới hy vọng sự mô phỏng thiên nhiên trên luống cày thời đại/ Làm bác trâu già mọc lại hàm răng…”(Thời đại và trí khôn).

Cái tôi trữ tình trong thơ Đoàn Thị Ký là cái tôi hướng nội, suy tư, nghiền ngẫm về tình yêu và bản chất của sự sống. Có một số bài thơ của chị được người đọc yêu thích vì nó chạm đến cõi sâu thẳm trong trái tim với đầy ắp những tâm tư, khát vọng rất đỗi đời thường.

Có lần sợi bông gạo bay/ Như chiếc chong chóng xoay xoay nửa vòng// Tôi đưa tay đón và mong/ Đâu ngờ gió tự vân mòng đẩy ra// Thế là bông gạo bay xa/ Nửa vòng chong chóng đã hòa thinh không...// Một mai ngọn gió thổi nồng/ Có còn bông gạo nửa vòng bay bay? (Nửa vòng bông gạo). Cái nhìn độc đáo về cảnh vật của thế giới tự nhiên làm cho người đọc bất ngờ và cảm thấy thú vị. Nhà thơ lắng nhìn và quan sát tỉ mỉ bông gạo bay và rồi suy ngẫm về chiều tương lai bằng một sự nghi vấn mà ở đó có những nuối tiếc, bâng khuâng.

Ở bài Thẫm chiều, từng lời thơ đọc lên nghe có điều gì đó hẫng hụt, man mác, rưng rưng. Chiều tim tím núi Tràng Đà/ Tôi tim tím nụ hoa cà bến sông// Có người khách cõi hư không/ Chờ con đò vãn bóng hồng nẻo sang.//Dòng sông vẫn chẳng tày gang/ Bè xuôi gối sóng đêm vàng đứt neo//Trông người... nào có người theo/ Trông trời... đôi hạt trong veo cách vời// Vẳng lên một tiếng - Đò ơi/ Sang sông lỡ chuyến, khách tôi thẫm chiều.

Đoàn Thị Ký là nhà thơ lặng lẽ nhưng say mê và sống hết mình với thi ca và bè bạn. Hành trình thơ và hành trình cuộc đời của chị dường như có sự đối sánh và song hành nhau. Ở đó, nhà thơ đã trải lòng mình trước cuộc sống để nhận thức, chiêm nghiệm, tự vấn, soi tỏ để củng cố niềm tin và sưởi ấm lòng người. Bởi hơn ai hết, Đoàn Thị Ký đã đem tất cả tấm chân tình của mình để trang trải với đời với người. Những gì chị có được hôm nay là cả một quá trình sống, làm việc nghiêm túc hết mình, sự dấn thân không mệt mỏi vì niềm đam mê thi ca./.

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm