TIN TỨC

Việt Bắc - Suối nguồn thi ca

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-15 00:33:29
mail facebook google pos stwis
642 lượt xem

 Với người Việt Nam, Việt Bắc còn gọi là Tây Bắc, là ngôn từ có âm thanh sâu lắng và ý nghĩa văn hóa vô cùng trọng đại. Không chỉ là biểu tượng của thủ đô kháng chiến thời chống Pháp mà còn là mạch nguồn cảm xúc của nghệ thuật, thi ca trong mấy mươi năm chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc đầy gian nan máu lửa mà oanh liệt hào hùng. Chính nỗi đau thương mất mát trong đấu tranh và niềm tự hào về thành tựu chiến thắng vẻ vang đã tạo nên nguồn cảm hứng cho lãnh tụ và văn nghệ sĩ. Những tác phẩm: Cánh rừng Việt Bắc (Hồ Chí Minh), Việt Bắc (Tố Hữu), Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên), Cô gái Hưng Yên đi mở mang Tây Bắc (Huy Cận), Truyện Tây Bắc (Tô Hoài)… và họa phẩm của Tô Ngọc Vân, được khơi dòng sáng tạo từ vùng đất lịch sử nơi đỉnh đầu tổ quốc.

Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc

Hùng vĩ ngự trị cả một vùng sông núi hiểm trở bao la phía Bắc Hà Nội, Việt Bắc nằm liền kề hữu cơ sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Nơi đây còn hằn in rõ nét dấu ấn lịch sử chói lọi của nhiều chiến công lừng lẫy trong thời kỳ kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp của quân dân ta.

Việt Bắc được gọi là Thủ đô kháng chiến, hay Thủ đô gió ngàn, nơi trú đóng đầu não của chính phủ cách mạng Việt Minh trước cuộc khởi nghĩa năm 1945 trong thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt, Bác Hồ và các cơ quan Chính phủ tại Việt Bắc đã chỉ đạo bước đi của cách mạng. Trong những tháng năm ở Việt Bắc, Bác luôn giữ bí mật

để bảo toàn lực lượng. Luôn di chuyển để kẻ thù không thể chủ động đánh được ta. Ngay cả tên những Thư ký của Bác cũng gọi một cách bí mật. Tám Thư ký của Bác được đặt tên một cách ý nghĩa như một phương châm chiến đấu là: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi. Ở đây, Bác có bài thơ được coi là quan điểm để Bác hành động: “Trên có núi, dưới có sông/ Có đất ta trồng có bãi ta chơi/ Gần đường tới Trung ương/ Tiện đường sang Bộ, Tổng/ Nhà kín mái thoáng mát/ Gần dân không gần đường”. Câu sau cùng là cả một triết lý: “Gần dân chính là sức mạnh của cách mạng”. Không gần đường để tránh sự lùng sục của địch. Nơi đây, Bác phong Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp (mới 37 tuổi), đồng thời cùng Trung ương quyết định tấn công Điện Biên Phủ 1954. Ta nhớ lại người chiến sĩ trẻ mới 20 tuổi Hoàng Đăng Vinh cùng 5 người khác vào bắt tướng De Castries đầu hàng tại Điện Biên Phủ… Trước đó, Việt Bắc cũng là nơi ghi dấu sự kiện Bác Hồ tiễn cụ Bùi Bằng Đoàn đang giữ chức Trưởng ban Thanh tra Đặc biệt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trưởng ban Thường trực Quốc hội Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về xuôi để dưỡng bệnh mà Bác không cho cụ từ chức, sau đó có tặng cụ bài thơ tứ tuyệt: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu/ Phê văn, hoa núi ghé nghiên soi/ Tin vui thắng trận dồn chân ngựa/ Nhớ cụ, thơ xuân tặng một bài”. Bài thơ cô đọng chỉ trong 4 câu mà nói lên được cả tâm hồn lớn của Bác với người bạn đồng chí và tinh thần lạc quan cách mạng của nhà lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc.

Việt Bắc cũng là nơi hội Văn hóa cứu quốc, các văn nghệ sĩ, những trí thức lớn đi theo cách mạng đã quây quần xung quanh Bác. Cảm động nhất là phiên họp Chính phủ, Quốc hội, cũng có dinh Chủ tịch, dù chỉ là túp lều được làm bằng tre và nứa. Cũng họp Hội đồng Chính phủ Quốc hội, vừa họp vừa nhóm lửa, nướng khoai, sắn để ăn; uống nước chè tươi từ núi rừng Việt Bắc: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay/ Vượn hót chim kêu suốt cả ngày/ Khách đến thì mời ngô nếp nướng/ Săn về thường chén thịt rừng quay/ Non xanh nước biếc tha hồ dạo/ Rượu ngọt chè tươi mặc sức say/ Kháng chiến thành công ta trở lại/ Trăng xưa hạc cũ với xuân này” (Cảnh rừng Việt Bắc).

Bên cạnh nhà thơ – chủ tịch Hồ Chí Minh, những văn nghệ sĩ cách mạng cũng lấy Việt Bắc làm nguồn cảm hứng để sáng tác.

Tố Hữu, ngọn cờ đầu của thi ca kháng chiến suốt cả hai mùa đấu tranh chống Pháp và Mỹ đã để lại cho kho tàng văn học nước nhà nhiều tác phẩm bất hủ viết về Việt Bắc. Trường ca “Việt Bắc” viết theo thể thơ lục bát truyền thống, là những giai điệu  xuất sắc mang hơi hướng thơ ca dân gian qua lời tiễn đưa của kẻ ở lại núi rừng và cán bộ, chiến sĩ rời chiến khu về thủ đô: –“Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng/ Mình về mình có nhớ không/ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn”//- “Ta về, mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ những hoa cùng người” làm tái hiện lại những kỷ niệm cách mạng đầm ấm và cuộc sống kháng chiến gian khổ mà vui vầy. Tác giả đồng thời cũng gợi lên viễn cảnh sáng tươi của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng và Bác Hồ với dân tộc: “Lòng ta ơn Đảng đời đời/ Ngược xuôi đôi mặt một lời song song”. Xúc cảm về Việt Bắc cũng là nỗi nhớ của người dân địa phương về Bác Hồ: “Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời/ Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường/ Nhớ người những sánh tinh sương/ Ung dung yên ngựa trên đường suối reo/ Nhớ chân người bước lên đèo/ Người đi rừng núi trông theo bóng người”.

Cảm xúc lớn từ rừng núi Chiến khu Việt Bắc trước tiên hẵn đã bắt nguồn từ chiến thắng Thu – Đông (7/10/1947 – 22/10/1947)  được kể lại qua câu giữa chuyện thắm thiết tình đồng chí yêu thương giữa anh bộ đội và người cán bộ: “Anh là vệ quốc quân/ Tôi là người cán bộ/ Hai đứa mỏi nhừ chân/ Nghỉ ngơi ngồi một chỗ//Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ/ Anh vệ quân quân ơi/ Sao mà yêu anh thế” (Cá nước), là tiếng hát lạc quan trong gian khổ: “Rét Thái Nguyên, rét về Yên Thế/ Gió qua rừng đèo Khế gió sang/ Em là con gái Bắc Giang/ Rét thì mặc rét, việc làng em lo…” (Phá đường). Cảm xúc nồng ấm từ Việt Bắc là giọng hò kéo pháo (Voi), là nỗi lòng của bà mẹ đau đáu nhớ con đi đánh giặc cũng như anh bộ đội nhớ mẹ ở làng quê (Bầm ơi, Bà ủ),là âm vang rầm rập những bước chân của người chiến sĩ lên Tây Bắc trong tư thế chàng dũng sĩ Hercules *: “Núi không đè nổi vai vươn tới/ Là ngụy trang reo với gió đèo” (Lên Tây Bắc). Đó cũng là cảm xúc tỏa ra nguồn “Sáng tháng Năm” từ căn nhà đơn sơ của Bác, là niềm hân hoan và tự hào trước chiến công lẫy lừng Điện Biên Phủ (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên), là niềm vui chiến thắng và hòa bình cùng nhịp sống rộn rịp của cả nước (Ta đi tới). Và cũng từ chiến khu kháng chiến này, cảm xúc ngập tràn về nỗi nhớ nhung và lời hẹn ước trước khi người cán bộ và chiến sĩ giã từ thủ đô gió ngàn Việt Bắc.

 Đoạn thơ hay nhất trong trường ca bất hủ kết tinh từ cảm xúc nồng nàn của Tố Hữu là đoạn thơ tác giả vẽ lên bức tranh Tứ bình về cảnh núi rừng Việt Bắc, đẹp hài hòa giữa thiên nhiên diễm lệ và con người tràn đầy sức sống trong cả bốn mùa. Giữa bức tranh có hơi thở nồng ấm của con người Việt Bắc đang hoạt động trong kháng chiến: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, câu thơ hay nhất của đoạn thơ (strophe) được ông hoàng thơ tình Xuân Diệu đánh giá là tuyệt bút vì mang màu sắc Việt Bắc. Trong những ngày xuân, nghệ sĩ nhớ: “mơ nở trắng rừng” cũng là nỗi bồi hồi “nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, câu thơ gợi lên đức cần mẫn, chịu khó của con người cần cù tài hoa đáng nhớ như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi: “Tay người như có phép tiên/ Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ”. Cũng từ cảm xúc thi ca nơi suối nguồn Việt Bắc, câu thơ hay khác: “Nhớ cô em gái hái măng một mình” của nhà thơ đã nói lên hình ảnh cô gái Việt Bắc trẻ trung, xinh đẹp đi hái măng một mình giữa rừng mà như chẳng cô đơn vì con người ấy đang làm chủ thiên nhiên và cuộc đời. Câu kết của đoạn thơ nói lên vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Bắc: ”Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” đã thể hiện hoài niệm trong sáng dào dạt tính nhân văn của tác giả, thật thấm đẫm tình người.

Thủ đô kháng chiến Việt Bắc còn gây nguồn cảm xúc cho họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954) sáng tác nhiều bài thơ bằng màu sắc về Hồ Chủ tịch, về bộ đội và nhà văn Tô Hoài (1920-2014) viết “Truyện Tây Bắc” kể chuyện tình gian nan mà trong sáng giữa cô gái đẹp Mỵ và chàng trai A Phủ cùng là người H’Mông tại Hồng Ngài. Hầu hết những tác phẩm văn học viết về chủ đề Việt Bắc của các nhà thơ Huy Cận (1919-2005) với: Cô gái Hưng Yên đi mở mang Tây Bắc, Chế Lan Viên (1920-1989) với Tiếng hát con tàu cũng lấy cảm hứng từ chiến khu Việt Bắc lịch sử đã có những vần thơ hay, khỏe khoắn về đề tài xây dựng đất nước khi hòa bình được thiết lập trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa đều được đưa vào chương trình văn học các lớp phổ thông. Những chiến tích lịch sử Thu Đông, trận sông Lô, Phố Ràng, Bông Lau, trận Chợ Đồn, Chợ Rã, đèo Bông Lau… cũng được nhắc đến trong bài học lịch sử, văn học nước nhà.

Ngày nay, giữa không gian lồng lộng sáng tươi của một đất nước thanh bình thịnh vượng, mỗi khi có dịp nhắc đến Việt Bắc, ta không tránh khỏi cảm thấy bồi hồi hoài niệm, trong lòng lâng lâng tràn ngập một niềm tự hào về thủ đô kháng chiến, một thủ đô gió ngàn hùng vĩ, liệt oanh còn rạng rỡ hình ảnh vĩ đại cao quý của Hồ Chủ tịch, cùng các tướng lĩnh, của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân và nghệ sĩ yêu nước trong thời đấu tranh chống Pháp. Cùng với nhân dân, bằng cảm xúc nồng cháy tự trái tim mình, nghệ sĩ – nhà thơ nhà văn đã đan kết với chiến khu lịch sử Việt Bắc năm xưa với một ân tình chung thủy gắn bó keo sơn – Tình Việt Bắc.

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                        

                                                              Nguyễn Thanh

* Hercules: Anh hùng có sức mạnh vạn năng trong  thần thoại Ma Lã

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm