TIN TỨC

‘Vườn xưa’ trên quê hương Tế Hanh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-01-14 23:33:15
mail facebook google pos stwis
6802 lượt xem

Có một hình ảnh mà người quê Bình Sơn, quê Quảng Ngãi giữ mãi trong lòng mình, đó là hình ảnh một dòng sông “Nước gương trong soi tóc những hàng tre”, đó là hình ảnh dòng sông Trà Bồng chảy qua làng quê Tế Hanh bốn mùa nước nước xanh biêng biếc.

Nhà thơ Tế Hanh

Còn một hình ảnh nữa chưa biết xuất xứ từ đâu, nhưng khi đã vào một bài thơ Tế Hanh thì được bạn đọc cả hai miền Nam, Bắc cùng đón nhận. Đó là bài thơ Vườn xưa. Bài thơ này Tế Hanh viết năm 1957 khi ông đang sống và làm việc tại miền Bắc. Có hai từ trong bài thơ định danh nơi xuất xứ của nó, đó là hai từ “công tác”: Hai ta ở hai đầu công tác/ Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa/. Cùng công tác, vào năm 1957, thì chắc chắn khu “vườn xưa” ấy ở miền Bắc rồi. Nhưng có một câu chuyện rất hay về bài thơ này mà tôi muốn kể lại:

Vào năm 1972, khi tôi đang “công tác” ở chiến trường Nam Bộ, tình cờ tôi đọc một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Túy Hồng – một nữ nhà văn Sài Gòn đang rất nổi tiếng. Trong tiểu thuyết ấy, cũng rất tình cờ, tôi gặp lại bài thơ Vườn xưa của Tế Hanh. Một nhân vật trong tiểu thuyết của Túy Hồng nói rằng mình rất thích bài thơ Vườn xưa của nhà thơ Tế Hanh đang sống ở miền Bắc Việt Nam. Và qua tác giả tiểu thuyết, bài thơ này đã được in nguyên vẹn. Với hoàn cảnh chiến tranh thời ấy, thì đây là một câu chuyện lạ. Nói “nhân vật” của mình mê bài thơ Vườn xưa của Tế Hanh, nhưng tôi nghĩ, chính tác giả Túy Hồng mê bài thơ này thì đúng hơn. Và bà đã mượn nhân vật để đưa nguyên bài thơ này vào tiểu thuyết của mình. Bài thơ của một nhà thơ đang sống ở miền Bắc đã được một nhà văn miền Nam đưa vào tiểu thuyết của mình, và đã được một anh lính “Việt cộng” là tôi, đồng hương với Tế Hanh phát hiện ra khi đọc tiểu thuyết. Tôi rất thú vị vì câu chuyện này, nó nói lên rằng thơ Tế Hanh đã được bạn đọc ở cả hai miền Nam Bắc, bất chấp hoàn cảnh chiến tranh, đọc và yêu thích.

Và bây giờ, qua rất nhiều tháng năm, sau khi đã viết khá nhiều bài về thơ Tế Hanh, tôi mới chợt nhận ra điều này: Dù sinh thời sống rất khiêm nhường, nhỏ nhẹ, không bao giờ biết “PR” cho thơ mình, nhưng Tế Hanh lại là một trong số rất ít nhà thơ đương đại Việt Nam được người đọc yêu thích nhất. Tôi biết điều đó, vì có một chuyện như thế này:

Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tế Hanh (1921-2021), một tờ báo mạng “có nhiều người đọc nhất Việt Nam” đã nhờ tôi viết một bài về Tế Hanh và thơ của ông. Có lẽ vì họ nghĩ tôi là đồng hương với Tế Hanh, lại quen thân với ông ngày ông còn khỏe, nên mới đặt bài. Bài viết của tôi cũng rất giản dị, nhưng tôi vô cùng ngạc nhiên khi được biết, số lượng người vào trang mạng đọc bài này là quá đông. Riêng những comments (bình luận) đã tới gần con số 200. Điều ngạc nhiên nữa với tôi, là những người viết bình luận đều nói là mình đã thuộc thơ Tế Hanh, thuộc cả bài, hay ít nhất, cũng thuộc một số đoạn thơ, nhiều người còn viết rằng đã thuộc thơ Tế Hanh từ khi họ còn nhỏ, còn ở tuổi đi học. Những bình luận đều bày tỏ sự yêu thương rất thật lòng với thơ Tế Hanh, điều quả thật không dễ dàng trong thời buổi rất ít người đọc thơ như bây giờ. Đó là điều khiến tôi rất hạnh phúc.

Sự khiêm nhường của một nhà thơ hiền lành như Tế Hanh đã mang lại cho thơ ông tình yêu thương mà nhiều nhà thơ khác thèm muốn. Tôi nghĩ, đó cũng là niềm tự hào của người Quảng Ngãi, khi một nhà thơ đồng hương của mình, một người dù sống ở rất nhiều nơi, nhưng suốt cuộc đời mình không bao giờ mất chất giọng đặc biệt mộc mạc của người Quảng Ngãi.

Và khi tôi mang những câu chuyện giản dị này về thơ Tế Hanh bàn với những người có trách nhiệm của huyện Bình Sơn, của xã Bình Dương quê hương ông, tôi đã nhận được sự đồng tình rất cao từ họ. Ai cũng muốn quê hương mình, địa phương mình phải có “Khu vườn lưu niệm” về nhà thơ Tế Hanh và thơ của ông. Và ý tưởng này chắc chắn sẽ thành hiện thực bởi nó được rất nhiều sự ủng hộ từ nhiều phía. Tôi nghĩ, đó chính là sự đồng thuận về tình yêu thương với thơ Tế Hanh, với con người nhà thơ Tế Hanh.

Khu vườn lưu niệm ấy sẽ mang tên “Vườn xưa”, và nó sẽ hướng ra phía dòng sông Trà Bồng, dòng sông quê hương đã chảy vào bài thơ bất tử của Tế Hanh.

Khi tôi mang ý tưởng này trình bày với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, anh Thiều đã ủng hộ bằng tất cả xúc cảm của mình. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều hứa, sẽ vận động để đúc một tượng đồng nhà thơ Tế Hanh (theo tỉ lệ 1-1, nghĩa là to bằng người thật) đang ngồi thanh thản trong “Vườn xưa”. Tượng đồng này sẽ là món quà của Hội nhà văn Việt Nam tặng cho khu vườn lưu niệm Tế Hanh ngay tại quê hương ông.

Và khi tôi đưa ý kiến ủng hộ này của Hội Nhà văn Việt Nam tới bạn bè anh em ở Quảng Ngãi, thì một sự đồng thuận với tất cả sự chân thành của mọi người đã khiến tôi rất cảm động. Từ bí thư Thành phố Quảng Ngãi tới Trưởng ban Khu kinh tế Dung Quất đều hứa hẹn sẽ vận động để ủng hộ cho ý tưởng này nhanh chóng thành hiện thực.

Một người bạn của tôi đang sống ở Sài Gòn, nhưng quê Bình Sơn, đã hứa ngay, sẽ ủng hộ hai phiến đá khắc hai bài thơ nổi tiếng của Tế Hanh, đó là bài Vườn xưa và bài Nhớ con sông quê hương. Mỗi người sẽ ủng hộ một phần để tạo nên khu “Vườn xưa” này, nơi sẽ lưu giữ hồn thơ Tế Hanh cho nhiều thế hệ người đọc.

Và khu lưu niệm “Vườn xưa” sẽ chính thức trở thành một điểm du lịch văn hóa cộng đồng khi hoàn thành.

Tỉnh Quảng Ngãi cũng vừa có quyết định để khu lưu niệm Tế Hanh chính thức thành di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi.

Và tôi muốn gửi bài viết này như một lời kêu gọi chân tình tới tất cả bạn đọc yêu thương thơ Tế Hanh: chúng ta hãy góp mỗi người một cây xanh nhỏ bé để khu vườn lưu niệm này không chỉ là “Vườn xưa”, mà là “Khu vườn Xanh” của hôm nay và mai sau. Thơ Tế Hanh sẽ vô cùng hạnh phúc được sống cùng cây xanh, cùng dòng sông “Nước xanh trong soi tóc những hàng tre” qua nhiều thế hệ không chỉ người Quảng Ngãi, mà còn là người Việt ở cả hai miền Nam Bắc. Và những người Việt đang sống ở nước ngoài.

Xin trân trọng giới thiệu bài thơ Vườn xưa của nhà thơ Tế Hanh, một trong những nhà thơ được người Việt yêu mến nhất:

Vườn xưa

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?

Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao hôm sao mai không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?

Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
Như tháng mười hồng tháng năm nhãn
Em theo chim đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua

Một ngày xuân em trở lại nhà
Nghe mẹ nói anh có về anh hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió thổi
Lá như môi thầm thĩ gọi anh về

Lần sau anh trở lại một ngày hè
Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn giếng giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?

1957

 Thanh Thảo/Văn Nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm