TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • ‘Chiều không để làm thơ’ – Góc nhìn đặc sắc về đất nước ngàn năm và tình yêu tràn ngập sắc hương

‘Chiều không để làm thơ’ – Góc nhìn đặc sắc về đất nước ngàn năm và tình yêu tràn ngập sắc hương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-29 00:32:37
mail facebook google pos stwis
1921 lượt xem

Nguyên Bình

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nếu nói rằng trời sinh Lê Nhật Ánh ra là chỉ để làm nhiếp ảnh và làm báo thôi thì chưa đủ. Anh viết báo và chộp ảnh đâu ra đó thật. Đó là những bài báo đi kèm với những bức ảnh sống động, nắm bắt những “khoảnh khắc vàng” xảy ra trên quê hương đang bị xói mòn bởi những bàn tay đen đúa, với khát vọng gìn giữ màu xanh cho đất nước mến yêu. “Chuyện của núi” là một tập thơ ảnh đậm chất nhân văn, là bản cáo trạng dành cho các thế lực, nhóm lợi ích cường quyền đang từng ngày bòn rút và tàn phá tài nguyên đất mẹ.

Ngoài nhiếp ảnh, Lê Nhật Ánh còn là một nhà thơ, một nhà thơ thực thụ với sự ra đời tác phẩm thứ ba Chiều không để làm thơ mà tôi (Nguyên Bình) được hân hạnh được anh gởi tặng rất sớm.


Bìa tập thơ “Chiều không để làm thơ” của Lê Nhật Ánh.

Danh họa Leone de Vinci nói: “Hội họa là thi ca được ngắm thay vì được cảm nhận, và thi ca là hội họa được cảm nhận thay vì được ngắm.” (Painting is poetry that is seen rather than felt, and poetry is painting that is felt rather than seen.). Nếu thay vì hội họa là nhiếp ảnh, Lê Nhật Ánh có trong tay cả hai lĩnh vực nghệ thuật này. Khi anh giương máy, nheo mắt, điều chỉnh khẩu độ, chọn góc sáng và lấy điểm vàng rồi bấm máy cũng là lúc hồn thơ anh bắt gặp cảm xúc. Tương tự như thế, chắc hẳn khi Lê Nhật Ánh làm thơ là lúc những hình ảnh mà anh hằng ngày đưa vào tầm ngắm tạo cho anh niềm vui sáng tạo dạt dào.

Nhưng, nói gì thì nói, giá trị của một nghệ sĩ là ở tác phẩm mà họ dày công sáng tạo. Và công chúng là người phán xét công bằng nhất. Tôi là một công chúng lạc quan, tôi đọc và cảm nhận Chiều không để làm thơ dưới góc độ một người yêu thơ với cái đẹp muôn đời của loại hình nghệ thuật này.

Hình thức của tập thơ Chiều không để làm thơ không thể chê vào đâu được. Bìa trước sang trọng và ấn tượng không thua kém bất kỳ một cuốn sách của một nhà xuất bản nước ngoài danh tiếng nào ấn hành. Với hơn 250 trang, thiết kế công phu tỉ mỉ, nhiều phụ bản in màu, tính minh họa cao, gắn bó chặc chẻ với nội dung, cho thấy tác giả đầu tư nhiều công sức và tâm ý vào tác phẩm.

Khi bạn cầm trong tay Chiều không để làm thơ, bạn sẽ cảm nhận được sức viết của Lê Nhật Ánh sung mãn như thế nào. Anh viết đủ các thể loại, thơ 5 chữ, lục bát, 7, 8 chữ và cả thơ xuôi, văn xuôi nữa. Thể thơ 6 chữ dạt dào vần điệu chừng như là thế mạnh của anh, chiếm tỉ trọng cao trong tác  phẩm. Lê Nhật Ánh vận dụng vốn sống ngồn ngộn của mình trong quá trình tác nghiệp ảnh để làm thơ, vì thế, thơ anh luôn tươi mới, không trùng lặp, mỗi bài thơ có một đề tài, mang một sắc thái riêng biệt. Ngôn ngữ thơ bình dân, không hoa mỹ, tạo ra một giọng thơ tự nhiên, thân thiện, gắn liền với đời sống  dân tộc, đặc biệt các dân tộc miền núi bắc Tây Nguyên. Và một góc quê nhà của Tổ tiên ông bà miền Tiên Phước – Quảng Nam, nơi đã chiếm lĩnh gần trọn vẹn tâm hồn anh với một tình yêu sâu nặng.

1. Một góc nhìn đặc sắc về đất nước ngàn năm

Mảng viết cho quê hương là một thế mạnh của Lê Nhật Ánh. Ta luôn bắt gặp trong Chiều không để làm thơ những phát hiện tinh tế khi nhà thơ thực hiện những chuyến trải nghiệm dọc theo chiều dài đất nước. Đi tới đâu, gặp cảnh hoang tàn lở lói trên quê hương, Lê Nhật Ánh quan sát, chụp ảnh và suy tư, lòng anh như quặn thắt lại, rồi từ trong tâm khảm bật ra tiếng kêu thảng thốt của một công dân có trách nhiệm nhìn nước non mình nham nhở vết cày xới tàn phá của những bàn tay vô cảm, lạnh lùng:

Chiều không để làm thơ.

Tôi chúm tay gọi:

Rừng ơi! Núi ơi! Quê hương ơi!…

Nghe sao mà buồn quá!

Những ruộng keo lai ăn mất cánh đồng.

Núi đồi trơ trọi, quanh co những cung đường xói lở.

Anh gần gũi với thiên nhiên tươi đẹp và thấu cảm với những mất mát khổ đau của đồng bào, với cả muôn thú giữa rừng xanh đang dần mất đất sống, ngơ ngác lạc loài giữa mùa li hương:

Mai anh về phía núi

Hiu hắt những ngàn xưa

Hươu nai không tác nữa

Đi giữa mùa li hương


Nhà thơ, nhiếp ảnh gia Lê Nhật Ánh.

Những địa danh truyền thống của đất nước qua đôi mắt quan sát sắc sảo của một nhiếp ảnh gia giúp anh phát hiện nhiều góc độ sáng tối của sự thật, sự mất còn của danh thắng đang dần bị đánh cắp và biến đổi. Trong một chuyến hành hương về với đất Thăng Long ngàn năm văn vật, Lê Nhật Ánh có một góc cảm thụ hoàn toàn mới mẻ, vượt qua cái rung động xưa cũ mang tính cảm hoài của nhiều ngòi bút đã từng viết về Hà Nội:

Đêm phương Bắc nằm nghe đời vội

Biết tìm đâu thương nhớ ngàn năm

Câu hát xẩm bên đền Quán Thánh

Nước non xưa đi mãi không về.

Trong một lần tìm về thăm nhà người thân ở Phan Rang, nhà thơ không bàng quan “đứng nhìn mà làm thơ” về vùng quê chan hòa nắng gió ấy. Anh dấn thân, vào cuộc, gieo sức sống vào thi ảnh sinh động với các cụm từ “leo xe”, “mùa mênh mang nắng”, “Hồn Chăm hút gió lên non”, khiến hình ảnh miền đất mênh mông cỏ cây lơ thơ gió cát như được phả vào hơi thở nóng hổi, hồn đất trỗi dậy lăn theo từng vòng xe “thổ mộ qua làng”:

Ngày ấy tìm về Lương Cách

Leo xe thổ mộ qua làng

Phan Rang mùa mênh mang nắng

Hồn Chăm hút gió lên non.

Có một nhà phê bình nói, không có thực tiễn thì không thể có những bài thơ hay. Ta lắng nghe Lê Nhật Ánh ghi lại cảm xúc cái giây phút anh “chạm” với mây trời thân quen Bà Rịa, nơi anh đang sống. Tôi cứ ngỡ đây là một bức ảnh độc đáo mà người nghệ sĩ chụp – được – chất – thơ của không gian thân thuộc chứ không phải là lời thơ tình tự. Phải chăng đó là sự hòa trộn diệu kì của thi tâm và thi ảnh trong tâm cảm nhà thơ. Hai động từ “đợi én” và “mây lên” sau hai địa danh thể hiện một cú pháp mới mẻ, gây cảm giác xao lòng, đó cũng là khoảnh khắc đắt giá của một ngưòi ngày đêm vác máy đi săn ảnh trên khắp mọi nẻo đường:

Em bảo còn thương người cũ

Mai về Bà Rịa tìm quên

Ngã ba Long Toàn đợi én

Bên chiều Chợ Bến mây lên

Dĩ nhiên, hơn đâu hết, vùng đất Tây Nguyên nơi anh sinh ra và lớn lên chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn anh với tình yêu bao la sâu đậm. Những địa danh của “Hoàng triều cương thổ” chi chít trong thơ anh, từ chim muông, động vật bản địa đặc hữu, rừng cây, hồ nước, bản Thượng với những già làng, cô thôn nữ, em bé ẩn hiện trong tình cảm thân thương gần gủi, tạo ra một bức tranh lớn sinh động đầy đủ sắc màu. Theo tôi, đây là ưu điểm nổi bật trong thơ Lê Nhật Ánh.

Mai về Tiên Phước hỉ

Đứng ngóng sông đầu nguồn

Tài Thành mưa ướt núi…

Quê cũ chùng trong sương.

Mỗi địa danh của vùng đất nơi anh sinh ra và lớn lên không chỉ là cái tên, mà là máu thịt và hơi thở nóng hổi đầy cá tính vùng miền được anh phả vào hình tượng thơ, vì chính anh hiểu rõ và yêu thương nơi đây như yêu bàn tay mình:

Nóc nhà có hình gà trống

Cặp sừng trâu giữa bậc thềm

Hổ báo vờn quanh vách gỗ

Bếp chiều thở khói tranh tre.

Ngoài ra, kiến văn vùng miền của tác giả rất rộng, đủ để trải thành tấm thảm xanh đón đưa chân khách thơ nối gót cùng anh. Theo chân thơ Lê Nhật Ánh, ta có cả một hành trình tìm về với nhiều địa phương khắp trong cả nước. Những bài viết về các địa danh giống như một thiên ký sự dài hơi, tôi không thể nào ghi lại hết những tên sông tên núi tên làng, nhưng dấy lên trong tôi nỗi khao khát thực hiện một chuyến đi trải nghiệm cùng nhà thơ. Phải chăng sự thu hút này là một phần ghi dấu ấn thành công trong thi tập Chiều không để làm thơ.

2. Một tình yêu tràn đầy sắc hương

Tôi chọn 4 câu lục bát và mời các bạn cùng tôi lắng nghe Lê Nhật Ánh trải lòng với “mùa yêu”, đó là mùa thương mùa nhớ, cái mùa đẹp nhất của đời người với bao nỗi bâng khuâng mà anh chắc lọc trong suốt cả cuộc đời mình, ấp ủ nó cho từng ngày cây tâm hồn hé nụ hoa thơ:

Trong tim còn mỗi mùa yêu

Trong ta còn mỗi bóng chiều thiết tha

Mùa yêu em giấu hôm qua

Ngày thương nhớ cứ sa đà trăm năm.

Trái tim nhà thơ vẫn không ngừng thổn thức với rất nhiều bài thơ tiếp nối nhau trải dài trong không gian thơ Chiều không để làm thơ. Tình yêu, một cái gì đó khó định hình định lượng, nhưng tình yêu lãng đãng chế ngự tâm hồn ta, xao xuyến vấn vương như mùa thu lá vàng, mùa đông khói bếp, như ban mai xanh, như “bóng chiều thiết tha” mây trắng. Dẫu em có giấu cất vào đâu thì trái tim ta vẫn “sa đà trăm năm” khát khao hò hẹn.

Thơ tình Lê Nhật Ánh không là lời tình tự giao duyên của đôi lứa, anh viết cho cảm xúc dâng trào khi nghĩ về tình yêu. Trong Chiều không để làm thơ vắng bóng những bài thơ sầu muộn sướt mướt của những cuộc tình xa thường tình. Với bản lĩnh của một con người năng động xông xáo, ta cảm giác Lê Nhật Ánh nuốt lệ vào trong, chịu nhận những vết cứa đau đớn của cuộc đời ngay cả khi mối tình đầu của nhà thơ vỗ cánh bay đi. Tôi rưng rức xúc cảm với những phút giây hồi tưởng chơi vơi về những tháng ngày mộng mị đã xa vời, đã mất dấu trong cuộc đời, khi mối tình thuở nảo thuở nao bỗng chia lìa đôi ngã được anh thể hiện trong 6 cái tự truyện in kèm theo ở cuối tập sách. Chia ly rồi hạnh ngộ cũng đủ để người ta cùng khóc cười với anh… Cuộc đời lắm ngả rẽ, chia phôi giữa biển đời xao động, chỉ đủ cho anh viết những câu thơ với sự nuối tiếc câm lặng, thương tiếc phố cũ ngày xưa chỉ còn lại dấu chân kỉ niệm đã phôi pha dập vùi mưa nắng, đời buồn tênh chỉ còn lặng nghe “nỗi buồn kết nụ”:

Em ngang chiều phố cũ

Nghe mưa nắng đời mình

Có nỗi buồn kết nụ

Bên phố người lặng thinh.

Có đôi khi, nhà thơ độc thoại với chính nội tâm mình, anh thủ thỉ với người tình xa vắng, lặng lẽ ôm giấc mơ luôn hiện hữu trong trái tim yêu đương. Vì thế, “một ngày như mọi ngày” của nhà thơ luôn “có dáng em nho nhỏ” ẩn hiện trong tâm hồn:

Ngày của anh

Có dáng em nho nhỏ

Có mắt cười đâu đó xa xăm

Rồi có những phút giây lao xao kỉ niệm dấu yêu hiện về, nỗi nhớ mong chắp cánh bay cao, dịu êm và lãng mạn, nguyên vẹn tinh khôi cái ngày hai đứa bên nhau. Hai câu thơ cuối của khổ thơ vô cùng đắt giá, tác giả khắc họa mối tình trẻ trung của đôi tình nhân trong thời khắc cận kề chỉ là “Mình ngồi lơ mơ quán gió” không tình tự, không vòng tay ôm ấp, không môi hôn nồng nàn dấu yêu mà họ cùng “ngắm mùa hoa đỏ quên yêu”. Thật là một hình tượng tình yêu thánh thiện, như Sait Exupery từng nói: “Yêu nhau không phải là nhìn nhau, nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng.” 

Bỗng dưng anh nhớ thật nhiều

Con đường qua nhà em trọ

Mình ngồi lơ ngơ quán gió

Ngắm mùa hoa đỏ quên yêu.

Khi yêu đương, ai mà không hờn dỗi, ai mà không mũi lòng, rồi trách móc, rồi xót xa. Họ giận hờn về một duyên cớ vu vơ nào ai mà biết được. Bốn câu thơ sau đây thật tinh tế, nói mà không nói, mơ mơ hồ hồ, không có lời than thở mà nghe có cảm giác nghèn nghẹn từ đâu đó trong ngôn ngữ thơ cất lên:

Hình như gió đổi rồi em

Chừng nghe thương nhớ êm đềm sang sông

Có điều gì đó đợi trông

Có niềm kiêu hãnh vẫn không quay về.

Nhà thơ cũng luôn tự khẳng định tình yêu đầu của mình dành cho “nhỏ”, đó là từ anh thích dùng cho người con gái thuở anh mới tập tành yêu đương trong giảng đường sư phạm. Thi sĩ không năn nỉ người mình yêu, mà ngữa bàn tay về phía trời xanh, anh xin giọt sương ban mai mãi long lanh, xin chiều thu cứ lững lơ mây trắng, để chiếc lá vàng cuối cùng của ngày hẹn hò còn mãi lưu dấu trên cây. Tình yêu của “kẻ ăn mày” tình yêu như gã hành khất Lê Nhật Ánh vô cùng lãng mạn, tôi rất muốn chạy theo mà có lẽ theo không kịp:

Khi yêu anh bỗng hoá ăn mày

Xin sớm đọng sương, xin chiều thu nắng

Xin chiếc lá vàng lưu dấu trên cây.

Thiết tha là thế, nhưng nhà thơ nhận thức tình yêu như chiếc lá mùa thu mong manh, như trái tim ngọc ngà dễ vỡ, thi sĩ khẩn cầu tất cả hãy lặng yên cho tình chàng vẹn nguyên, xin đừng chạm vào nó,  “dẫu chỉ là cơn gió” cho ta phơi cuộc tình*:

Đừng chạm vào chiếc lá thu

Dẫu chỉ là cơn gió

Đừng chạm vào xưa thương nhớ

Mộng vẫn trên cành chiêm bao

Thế rồi, bỗng một hôm, trải qua bao chia lìa nghiệt ngã, khi “tơ tóc ngã màu khói mây” thì trời đất dung rủi cho đôi tình nhân thuở xưa hạnh ngộ, một cuộc hạnh ngộ ứa nước mắt hạnh phúc của hai trái tim đã chịu nhiều đau khổ, nếu Lê Nhật Ánh nhờ ai đó bấm máy, chắc chúng ta sẽ có một bức ảnh tuyệt vời:

Mấy lần qua bến nông sâu

Thương người tơ tóc ngã màu khói mây

Ơn trời còn buổi sương bay

Chiều nay em khóc giữa vòng tay yêu

Và bây giờ, chàng thi sĩ lãng tử một thời dọc ngang bỗng ngoan hơn bao giờ hết, khi ở trong vòng tay yêu thương, chàng đã thỏ thẻ hứa với nàng, chao ơi, ngoan như vậy là cùng:

Mình hứa với người sẽ ngoan

Hứa là sẽ chẳng đi hoang mỗi chiều

Mình hứa với đời sẽ yêu

Hứa ngày quên nhớ buồn vui cùng người

Giờ đây, tôi hình dung họ đang chung bóng trên đường đời và mỗi khi nàng giận hờn, nhà thơ tự tin ru tình để viết những câu thơ dổ dành ngọt lịm:

Giận hờn em trách vậy thôi

Yêu mà để hết là đời rong rêu

Con tim zích zắc bao điều

Rằng thương nhớ đã quá chiều mây bay.

Tôi nghĩ mình không thể miên man rơi vào cái không gian yêu dấu này mãi được dù đang đắm chìm trong những cảm xúc yêu đương rất đời mà cũng vô cùng đẹp đẽ ấy. Thế nên xin nhường lại thời gian cho các bạn khám phá tâm hồn thơ Lê Nhật Ánh trong thi tập Chiều không để làm thơ nhé!

Nhà thơ Lê Nhật Ánh đang ở tuổi xấp xỉ 60, cái tuổi sung mãn của sức lực và trí tuệ, tôi tin anh còn tiếp tục sáng tác nhiều năm nữa, để cho ra đời nhiều tác phẩm giá trị cống hiến cho nghệ thuật với súc sáng tạo của một cá tính thơ đặc biệt.

Bà Rịa, ngày 9/3/2022

N.B

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm