TIN TỨC

Đào Bá Đoàn - Người đi bỏ mặc nhân gian (phần 2)

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-12 00:11:12
mail facebook google pos stwis
1520 lượt xem

Phùng Văn Khai

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Văn xuôi của chúng ta kể từ cái mốc sau Đổi mới (1986) về cơ bản đã có những tìm tòi thể hiện nhưng thực sự đổi mới về thi pháp thì còn khá tự phát và từ đó dường như chưa có được thành tựu nào nổi trội ở mặt này. Với hai tiểu thuyết Những mảnh vỡ và Đường không hết lối đã hoàn thiện và ra mắt độc giả cùng vài chục truyện ngắn trong tập Rượu của thời chưa sinh và một số truyện ngắn in rải rác trên các tạp chí, báo trong và ngoài nước, các trang báo mạng đã cho thấy rõ ràng một nỗ lực cách tân về thi pháp của Đào Bá Đoàn trong từng đoạn văn, truyện ngắn, tiểu thuyết.

Nhà văn Đào Bá Đoàn

Văn chương Đào Bá Đoàn đã bứt phá về mặt hình thức vượt lên những người đồng thời với anh nhưng không vì thế mà nó gây được sự chú ý lập tức của giới phê bình, những người sáng tác trong giới. Tôi không trả lời được câu hỏi này. Văn chương ở chúng ta có những lúc rất kỳ cục và những gì lấp lánh thực sự, đáng ghi nhận thực sự lại thường rơi vào im lặng còn những thứ la làng, rỗng tuếch, dị hợm lại dường như được tung hô.

Nhưng thực ra tôi gắn với anh nhiều nhất, thuộc nhất, bộc lộ đến đáy nhất lại là ở trong đời sống thường nhật.

Điều đó cũng khá lạ lùng. Khác cơ quan, khác nhiều thứ như gia đình, sở thích, tính nết, quan điểm, bè bạn… nhưng cũng chẳng hiểu bằng lý do nào lại cứ luôn dính dấp vào nhau, có những lúc như những kẻ đồng tính đến thế. Một cuộc chơi thường kéo dài có khi đến cả tuần, lê la, lang bang vùng đất này sang vùng đất khác. Có khi hứng chí bắt xe, nhảy tàu vào tận Tây Nguyên, đi biên giới nằm nghe mang tác chán lại xuống suối bắt cá rồi thì đêm đi săn ngày uống rượu mãi cũng nhàm lại xuôi xuống Sài Gòn đèn xanh đèn đỏ áo dây áo mảnh tùm lum văn nghệ cũng lại chán lại bắt xe ôm ra bến tàu cưỡi tàu cánh ngầm xuống Vũng Tàu leo lên xe của nghệ sĩ bạn bè học Đỗ Mão lượn mấy vòng bán đảo cởi quần áo nhao xuống biển bơi loanh quanh mấy hôm ngắm Tây ta nồng nỗng rồi thì nào có bớt được cô đơn cô độc cho cam dẫn đến ông chẳng bà chuộc dằn dỗi bỏ vé máy bay bắt xe định chia loan rẽ thúy rồi thì xé vé xe ô tô nâng chén rượu làm lành thảy là đã biết bao lần.

Anh đã có những ứng xử tinh tế, thậm chí tài tình với những người chiến sĩ nơi biên giới. Khi ấy trong đêm rừng mưa rét thời khắc cuối năm, những người lính chụm vào nhau bên gộc củi cháy hồng. Những câu chuyện cuộc đời được đem ra rí rách bên ché rượu khi thơm nồng khi đắng chát. Nước mắt đàn ông rơi lèo xèo xuống tàn lửa bỏng. Họ kể về một đồng đội của họ, một gã đàn ông ưa thích săn bắn đã bị rừng thẳm báo thù bằng cách tước đi toàn bộ phần làm giống làm má của con người. Bi kịch từ đó cứ liên tiếp giáng xuống con người táo tợn ấy. Mất việc làm, mất nhà cửa, mất những người thân yêu nhất và cuối cùng là mất niềm tin và cuộc sống. Tôi không tham gia vào câu chuyện chỉ nằm im nhìn ra phía ngoài trời đang ngày càng đen đặc và gió vùng biên ải thổi dồn mỗi lúc gào rú đập thình thình trên những mái tôn rách nát. Những người lính ở đây luôn ít nói. Nhiều người đã lớn tuổi nhưng chưa có gia đình riêng và hoàn toàn có thể khó thực hiện điều ấy vì những lý do khách quan và chủ quan và cơ bản nhất là do chính họ. Họ dần dần như rời khỏi những ồn ào náo nhiệt, tranh giành, vồ vập sống còn của cuộc sống. Anh ngồi im, lúc này sao tôi thấy anh giống họ quá. Họ như lẫn vào nhau, lẫn vào sương khói nơi biên giới hoang vu. Đêm dần tàn. Tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi cặp mắt cay xè líp nhíp mở ra vẫn thấy bóng những con người in sững trên vách gỗ. Họ đã thì thầm trò chuyện với nhau suốt đêm. Về nỗi cô đơn tiền kiếp của con người? Về một tương lai, một chân trời mới? Chỉ biết rằng trong suốt hành trình dọc tuyến biên giới những ngày đông giáp tết ấy, những người lính như bị anh hấp dẫn và chính họ hấp dẫn lại anh đến mức có lúc tôi như phát ghen lên.

Như mọi chuyến đi, cuối cùng chúng tôi cũng phải trở về nhà.

Nhưng anh sẽ trở về đâu trong cái thành phố hỗn độn mênh mông ấy?

Tôi thấy anh lần chần, nấn ná, tuồng như không muốn trở về nữa. Tôi bàng hoàng. Con người khi không còn muốn trở về nơi ra đi của mình, cho dù chỉ là một chuyến đi, cho dù nơi trở về cũng chỉ là một điểm thuê mướn bọt bèo thì cũng là một điều khủng khiếp. Gánh nặng cô đơn và cao hơn thế, sự cô độc lúc nào cũng như săn tìm truy bức anh. Trong các sáng tác của mình, điều đó luôn hiện lên lồ lộ. Anh bộc lộ cái tôi rất quyết liệt nhưng luôn theo cách riêng của mình và không lẫn với ai.

 

Khi sinh ra, tôi không biết đi mà chỉ biết bò. Động tác cũng thật kỳ lạ, cứ phải vặn vẹo đến nhăn nhó vì đau đớn thì mới di chuyển nổi thân xác. Một cái vệt nhớt ngoằn ngoèo vạch lên trên một nền đất trắng xóa. Tôi đau đớn nhận ra mình hoàn toàn một mình. Tứ phía hoang vu và ác độc. Tứ phía như đều có những con mắt thao láo hằn học và giễu cợt. Có gì như chờ đợi tôi kiệt sức để khẳng định một sự thắng thế lý tưởng. Mà thực chất cái âu lo đã tràn tới ngấm vào trí não khiến tôi chỉ muốn gục xuống mà khóc. Niềm phấn khởi đủng đỉnh ở phía xa xôi, cũng ngạo nghễ giống một tiều phu không thiết nhìn ngắm sự sống và cuộc đời, vì cho rằng mình duy nhất tồn tại bằng vô ưu không hình sắc và định lượng thời gian. Điều cay đắng là những hạt cát cũng chẳng muốn bám vào tôi, dửng dưng như sự khinh bỉ không cần nguyên cớ. Không có nước mắt. Không. Không hề có nước mắt. Ngay từ những phút đầu tiên đã không hề có nước mắt. Loãng nhạt và trống hoác. Một cảm giác se sắt từ từ xâm chiếm khiến những tiếng đập ngắt đoạn như phân tách thực thể làm nhiều hạt nhỏ rồi cố tình không muốn kết dính. Im lặng thì bền vững còn mẫn cảm thì tơi bời. Ba mươi ngày không bằng một phút thậm chí ba trăm ngày cũng không bằng một phút. Thế mà đã có truyền tụng rằng, sự gắn kết để sinh thành vốn khó khăn và đau đớn, khoái cảm chảy tràn trong từng ống máu và tế vi đến mức muốn tự tử. Đấy. Niềm tin khó đạt được, ngay từ hơi thở đầu tiên giao hòa với đất trời. Thân thể nhiệt hạ, linh cảm rã rời một tình yêu mỹ lệ. Tôi cố rướn. Dù sao cũng phải công nhận, khát vọng tiến lên phía trước là có thật, mặc dù phía trước ấy hoang vu và đầy bất trắc. Sự ngây thơ cũng vậy, tôi đã tiêu pha nó từ trong bụng mẹ, hơn thế, từ khi chưa có cuộc giao hoan, nó đang ở cả trong hai phía với những nỗi khát hoàn toàn ích kỷ; khi chập làm một thì tự thân đã rất hoang toàng cho nên không thể nào tiết kiệm. Tôi lại cố rướn. Oằn mình để mà rướn được. Nhưng mà vẫn khó khăn lắm. Tiếng thở nghe rõ quá, lớn như tiếng rít của mãnh cầm hoặc khúc cứa của hai miền hoang vắng. Tiếng thở buồn nản. Tiếng thở nhũn nhùn vào lúc trí lực teo đi như hạt vừng. Tiếng thở lại mảnh như sợi tơ bay vào không khí. Rồi tiếng thở lại to dần, lại một lúc như tiếng cọ nhau (lần này thì) của mãnh cầm và hoang biệt. Tôi không muốn chết. Đó là chân lý vừa chợt lóe sáng trong phút hiểm nguy nhất của tính mạng và linh hồn. Để chứng minh (cho ý tưởng), tôi dồn tất cả sức mạnh để làm cho cái mẩu con con nhòn nhọn ở phía chót cùng được động đậy. Rồi khi nó động đậy được thì hét toáng lên (tất nhiên là tiếng hét chỉ vang trong thân thể tôi), liền giải tỏa được một niềm tuyệt vọng đang sắp đóng tảng như băng ở Bắc cực. Tôi cố gắng tiết ra được một nhúm nước bọt. Lẽ thường sẽ phải thở phì phì ra xung quanh để đánh dấu vương quốc của mình, đồng thời tỏ oai, chứng thực sự tồn tại riêng tư trong vũ trụ. Nhưng, để nuôi sống tức thời thân thể, tôi chẳng có gì khác, đành phải nuốt trôi nó (cái đám nước bọt). Cổ họng bỏng rộp, như được tưới nước lạnh. Từng mạch nhỏ giãn nở và đó chính là cái khoái cảm đầu tiên của tôi với cái thế giới hỗn độn và nghiệt ngã này. Con mắt vốn nhỏ bây giờ được khép lại để hưởng thụ cái giây phút tột đỉnh sơ khởi và cũng là sự khám phá mê loạn tinh khôi. Tự thương ư? Không. Tôi chả biết gì về cái điều khó hiểu ấy. Cảm giác thật là bén nhạy. Cảm giác cho rằng mình vẫn còn sống. Chút mê tơi vồ lấy sau dục vọng đầu tiên đã được thỏa nguyện phần nhiều bằng trí tưởng tượng. Sinh khí như hơi nước bốc ra từ những tế bào bé nhỏ. Tôi đã không chết, mặc dù âu lo đã thành ám ảnh.

 (Hãy bò đi)

 

*

*      *

Trong các cuộc đi, một cuộc chúng tôi bị kẹt ở một ngôi đình cổ trong một trận lụt khiến tôi bắt đầu rộn lên những thắc mắc và muốn tìm hiểu về tính bí ẩn và kỳ quái của anh. Chúng tôi đốt những bó rơm còn sót lại trên sàn căn phòng nơi mé sau của đình. Cô gái cao lêu đêu như một cây sào và anh đã bằng một tài vặt tóm được những chú cá mê mải giỡn nước ngao du trên sân đình quăng vào đám lửa. Tôi và một anh bạn Tổng Biên tập Tạp chí văn nghệ địa phương mải chuyện với cụ thủ từ về những đặc điểm của chùa vùng châu thổ. Cơn chuyện đang xoắn bện thì phát hiện ra đôi kia đã dắt nhau đi đâu mất và mùi cá chín thơm lừng ở ngay bên cạnh. Trên tàu lá chuối rách tướp nham nhở do bão đánh, hai con cá quả chín vàng cùng một nắm muối và nậm rượu như hiện từ dưới đất lên. Quà hối lộ của lũ kia đấy. Chúng tôi sà vào và bắt đầu nhâm nhi trong bóng tối chạng vạng bốn bề đổ xuống. Nhìn từ ngoài, chỉ thấy hơi nước bốc nghi ngút và mùi cá nướng thơm lừng và nếu ai chỉ nhìn lướt sẽ tưởng như một ban thờ với mấy ông tượng động đậy trong mờ mịt khói hương.

Nhưng đôi kia dắt nhau đi về đâu? Một gã nhà văn tính nết ẩm ương và một cô gái quê chất phác hiền lành cả đời không bước chân khỏi phố huyện dắt nhau đi trong một đêm nước vây tứ phía thì chuyện gì sẽ xảy ra? Tính gã này lại rất ưa thích đàn bà con gái. Đây lại là chốn thanh bình của vùng quê cổ vẫn sót lại tàn dư phong kiến. Tôi và anh Tổng Biên tập thấy khó xử quá. Chỉ cụ thủ từ cứ ngồi im lặng, mắt dõi ra phía ngoài hồ nơi nước dâng ngập sân đình bình thản như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đứa cháu cụ, kẻ mồ côi từ tấm bé ấy được cụ giáo dưỡng không bằng những lề thói hà khắc mà luôn được bồi đắp bằng sự khai tâm, dưỡng thiện ở đời. Chúng tôi chưa đạt được sự tĩnh lòng như ông cụ và đằng nào thì cái gã trời đánh kia thì cũng đã rời khỏi đây rồi. Chúng có cuộc đời của chúng. Chúng có niềm tin và trách nhiệm với cuộc đời. Chúng tôi cứ ngồi thế cho đến sáng.

Rồi thì cũng chả cháy nhà chết người gì.

Buổi sáng, gã trời đánh và cô gái tươi mởn bên nhau trở về căn nhà nhỏ của anh Tổng Biên tập. Thấy bọn chúng có vẻ thách thức cả trời đất như thế chúng tôi bèn xách xe máy tránh đi, nhằm nơi phố huyện, nhằm nơi ồn ào nhất mà tiến đến mặc kệ đôi mình trong căn nhà nhỏ với những xử lý sinh hoạt tùy thích. Gã vốn thích tự do thì đây coi như một món quà mà con người mạn phép thay mặt tạo hóa kính dâng chúng.

Công cuộc mưu sinh kéo chúng tôi đi.

Một tháng, rồi hai tháng, không thấy gã nhắc gì về cô gái nơi thôn mạc kia. Một cuộc tình chớp nhoáng? Một bông hoa bất chợt dọc đường hay muốn cho nhau một bất ngờ, một niềm vui có tính toán? Chịu. Với gã này, tất cả phỏng đoán chỉ là thừa. Và tôi, tôi cũng chẳng tội gì đi sâu vào đời riêng của gã. Tôi chỉ quan tâm đến văn chương gã, cái đã khuất phục tôi và không ít bạn bè sáng tác đồng thời.

Bây giờ, đã gần hai mươi năm tôi cũng chưa hỏi gã cái việc đêm hôm ấy. Tại sao chúng ta phải thóc mách vào những riêng tư của nhau trong khi cuộc sống còn có nhiều hấp dẫn, vật lộn để sinh tồn.

 

*

*     *

Một đoạn tôi viết về anh:

... Họ Đào ở căn nhà ổ chuột cuối ngoại ô. Nhà dột và rất nóng. Trời lạnh thì heo hút như nhà mồ. Ở đó có mấy ả sồn sồn không chồng con, không để ý kỹ không ai biết làm nghề gì, chỉ thấy họ luôn biến đi từ lúc nào, gần sáng mới trở về, luôn phờ phạc, ủ rũ, lo âu, luôn hãi sợ cái gì và thở dài. Có đêm đã khuya, hôm ấy dường như không ai đi làm, những người đàn bà lôi họ Đào đang ngủ dậy bằng được và mời uống rượu, có lẽ là sinh nhật một ả nào đó. Những người đàn bà hôm ấy ăn mặc tươm tất, nhà cửa gọn gàng nhưng cũng không giấu nổi thân phận của mình, nài nỉ ông nhà văn dở dở ương ương có đôi lời khai mào về cuộc đời này, trong hôm nay, về tương lai của chúng em. Họ Đào dụi dụi mắt, ngơ ngác nhìn ra xung quanh, dần dần hiểu được tình thế. Nhấp một ngụm rượu chua loét, gã thong thả nói, nửa nghiêm nghị, nửa hài hước. Những người đàn bà lắng nghe, ai cũng chăm chú, một lúc lại cười ré lên. Một lúc có người khóc rấm rứt, người ngặt nghẽo cười. Đám chúng sinh tội nghiệp không ngờ có một ông thánh sống ở bên mình bao năm tháng mà không biết. Hóa ra ông ấy biết hết chuyện của chúng mình, đời sống và suy nghĩ của chị em ta, cả cái nghề mà người đời vẫn dè bỉu là bẩn thỉu, hèn hạ, rác rưởi kia ông ấy cũng biết. Ông ấy biết và ông ấy còn biết thông cảm cho chị em ta thì không cười khóc khóc cười làm sao được. Chị em ơi, cứ cười khóc cho thoải mái đi, ông ấy hiền lắm. Có khi ông ấy cũng bị săn đuổi, bầm giập giống chị em ta. Ngành nghề đôi bên cũng gần nhau lắm. Họ Đào mỉm cười, gã biểu dương chị em ở đây có tinh thần đoàn kết nội bộ. Khu nhà này đã bao năm không có nạn trộm cắp. Đồ đạc của ai người ấy dùng, thiếu thì xin, xin thì cho chứ không có kiểu thó của nhau, càng không ai to tiếng với ai như thế là có văn hóa đấy. Mọi người hôm ấy mới biết, đã không ít lần họ Đào lặng lẽ trả tiền điện tiền nước cho một số chị em bị đau ốm, khó khăn khi chủ nhà hoạnh họe. Chị em ứa nước mắt nhìn người đàn ông nhỏ bé, hiền từ, suốt ngày hý hoáy, lọc cọc bên chiếc máy vi tính cũ kỹ, ẩm mốc, đã bao năm nay lặng lẽ như cậu học sinh ngoan câm điếc bẩm sinh. Ở xung quanh mình, luôn có biết bao điều mới lạ. Những người đàn bà liên tiếp rót rượu ra chúc gã, lời chúc ngây ngô, chân thực. Ai cũng xúc động, nước mắt gã cũng rịn ra. Rượu cay quá. Tình đời cay quá. Những chén mừng này hãy cùng nhau uống cạn. Nào, uống cạn! Bể dâu này hãy cùng nhau vượt qua. Nào, vượt qua! Từ bây giờ ông anh là đại ca của chúng em, thủ trưởng của chúng em, ông anh thích gì chúng em chiều tất, chúng em sẽ luân phiên hầu hạ ông anh đến nơi đến chốn trong cuộc đời còn lại của mình, ông anh nhé. Thôi từ mai, ông anh không phải đi đâu cả. Cứ ở tại gia đây thôi. Cuộc đời chúng em đây đã là bao nhiêu kho thực tế rồi cần gì phải đi tìm hiểu thêm ở đâu nữa. Chúng em sẽ kể về cuộc đời mình cho ông anh mà ghi chép lại cho đời sau, cho con cháu chúng nó biết, không mai kia chúng nó tưởng đời chúng mình sung sướng lắm, ăn không ngồi rồi, ăn trên ngồi trốc lắm phải không ông anh. Thôi, từ rày trở đi ông anh không phải đi làm ăn gì cả, cứ ở nhà viết lách, chúng em nuôi. Nhìn cái tạng ông anh, ăn uống mấy nả, cả cái chuyện kia nữa ông anh cứ yên trí, tha hồ thoải mái, muốn đứa nào cũng được. Chúng em thấy ông anh cũng là người có nghĩa khí nên mới mong muốn thế chứ thằng khác đừng hòng. Tẩn thì phải nôn ra. Như thế có được không hả các chị? Nào, cạn! Tất cả bát chén giơ lên, va lanh canh. Những người đàn bà ngấm men say, mắt sáng rực lập tức reo lên, vỗ tay đón chào một sự kiện lạ lẫm, hi hữu xảy ra ở cuộc đời mình. Mà thế thật, suốt đời họ toàn phải lo lắng, đối mặt, gánh chịu những cộc cằn, chửi rủa, bị ăn cướp, ăn quỵt và hãm hiếp, có bao giờ được nghe những điều nhẹ nhàng, phải trái, thông cảm, yêu thương, hiểu biết và chia sẻ với thân phận họ. Những người đàn bà ở đây ai cũng từng đi từ nỗi đau này sang nỗi đau khác, lường gạt này sang lường gạt khác, hãm hiếp, bắt bớ, đánh đập triền miên. Chỉ đến khi họ lẩn được về đây, ngôi nhà này, mới phần nào yên hàn, một yên hàn tạm bợ, phập phù, đầy lo lắng. Hôm nay, họ tình cờ biết đến những thân phận khác, những con người ngay bên cạnh, cảm thông cùng họ, chia sẻ và hiểu biết tất thảy những gì về họ. Quan trọng hơn, người ấy không coi thường họ, sẵn sàng tham dự vào cuộc vui cùng họ, và cười, và khóc cùng chị em. Chỉ có thể là Phật là Thánh mới làm được điều ấy. Anh ơi! Chúng em cảm ơn anh nhiều lắm. Chúng em cảm ơn đời. Chúng em cảm ơn lắm lắm. Cứ thế, những người đàn bà say bắt đầu ê a hát, đủ mọi loại giọng, đủ mọi sắc thái, ái, ố, hỉ, nộ chen chúc vang lên. Họ Đào cũng hát, hôm nay gã hát rất hay, từng câu từng chữ tròn vành, rõ tiếng. Bài hát về cuộc đời đầy sóng gió của một gái giang hồ và chàng trai trong mộng. Người tình trong mộng bỏ đi, cô gái thay vì trẫm mình xuống dòng sông mù quáng đã kịp thời tỉnh ngộ, đến với vùng đất mới làm lại cuộc đời mình. Và chính dòng sông mà cô gái định trẫm mình, đã dang rộng vòng tay chở che, vỗ về, đón cô đến vùng đất mới. Như nghe được cả tiếng sóng vỗ, tiếng gió thổi và trái tim yêu cuộc sống của cô gái đập dạt dào. Những người đàn bà nắm tay nhau, nhảy múa xung quanh họ Đào, nhảy miên man theo lời bài hát cũng miên man tưởng chừng không bao giờ dứt. Đêm ấy, khu nhà đổ nát như một lâu đài lung linh, huyền ảo, không có thật ở trần gian. Ước gì đêm nào cũng như thế nhỉ. Rồi gần sáng, tất cả lăn lóc say, cả ông anh cũng say li bì, nằm ngổn ngang cùng với mấy cô em. Cũng chả ai để ý, vì khu nhà thông thường ban đêm chỉ họ Đào lặng lẽ, tí tách bên máy tính, còn các cô em thường đi những đâu đâu, tảng sáng mới về. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Họ lăn ra, ôm nhau ngủ. Khu nhà chìm vào im lặng. Cái âm thanh duy nhất là tiếng khóa cửa lạch xạch của họ Đào, và khi sáng hẳn tiếng xe máy nổ bành bạch thả làn khói xám vào trong giấc ngủ của các cô em vẫn đang say lăn lóc, li bì không biết trời đất gì nữa. Sau cái đêm diệu kỳ ấy, rốt cuộc sự việc đâu lại vào đấy. Chả ai hầu hạ gì ai. Ông anh vẫn lụi cụi công việc của mình. Mấy cô em cũng vậy, họ điềm nhiên lao vào cuộc đời riêng, đam mê riêng của họ. Ông anh là người tốt bụng, hồn nhiên chứ không phải thánh thần. Một lần, vào tảng sáng, có gã ma cô dìu một cô em bê bết máu về quăng ngay đầu nhà. Nghe tiếng động, đang kỳ cạch bên máy tính, ông anh ngáp ngắn ngáp dài đi ra tìm hiểu sự tình. Người cô em mềm nhũn, máu me be bét. Lôi vào trong phòng, ông anh dùng phích nước gột rửa, lau mặt mũi cho cô em rồi đặt lên giường đắp tấm mền ẩm mốc, hôi rình cố hữu của mình. Cô em ú ớ, khe khẽ rên rồi lăn ra ngủ. Ông anh nín lặng thở dài, lạch xạch dắt xe đi làm sớm. Chiều về, không thấy cô em đâu. Không một lời cảm ơn. Không một dòng địa chỉ. Chiếc máy tính cậm cạch, chiếc quạt cũ sứt sẹo và chiếc đồng hồ treo tường đã bị tháo đi không một lời nhắn gửi. Cũng lặng lẽ như không, ông anh quay xe, đi về phố máy tính cũ, rước về một chiếc. Mấy đêm tiếp đó, điện phòng ông anh bật sáng cả đêm. Ông anh ngồi đăm chiêu, bóp đầu bóp trán khôi phục lại số bản thảo cũ, thỉnh thoảng nhăn nhó, miệng lẩm bẩm điều gì đó, như là chửi rủa trí nhớ tồi tệ xuống cấp của mình.

...

Nỗi đau có thật không, tôi cũng không biết nữa?

Nhưng đó là anh.

(Còn tiếp)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm