TIN TỨC

Đọc bài thơ Con chào mào của Mai Văn Phấn từ góc nhìn sinh thái

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-25 23:12:15
mail facebook google pos stwis
7614 lượt xem

Đinh Thanh Huyền

Tôi đang sống ở tầng 18 một căn chung cư giữa lòng thành phố, nơi mà mỗi ngày nhìn ra chỉ thấy hàng trăm cái cửa sổ giống hệt nhau như trăm con mắt rỗng mở vào không gian. Ở đó, bầu trời rất gần nhưng không hề sống động. Mây cũng rất gần nhưng giống những vết sẹo chi chít trên nền trời. Ở đó, mỗi ngày tôi thấm thía hơn những tổn thương mà con người phải chịu đựng khi xa cách với thiên nhiên. Những tổn thương ấy càng rõ khi tôi đọc bài thơ Con chào mào của Mai Văn Phấn.

Con chào mào đốm trắng mũ đỏ

Hót trên cây cao chót vót

triu...uýt...huýt...tu hìu...

 

Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ

Sợ chim bay đi

 

Vừa vẽ xong nó cất cánh

Tôi ôm khung nắng, khung gió

Nhành cây xanh hối hả đuổi theo

 

Trong vô tăm tích tôi nghĩ

Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu

Trái cây chín đỏ

Từng giọt nước

Thanh sạch của tôi.

 

triu...uýt...huýt...tu hìu...

 

Chẳng cần chim lại bay về

Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.

Bài thơ gồm 16 dòng, không có từ chỉ cảm xúc, không có tính từ (những yếu tố tạo chất trữ tình thường thấy trong thơ). Bài thơ không vần nên cũng không có âm hưởng dìu dặt quen thuộc. Nhạc tính của tác phẩm được tạo nên bởi các từ láy (chót vót, hối hả); phép điệp (khung nắng, khung gió, tiếng hót) và cấu trúc vòng tròn (sự xuất hiện của tiếng hót đầu và cuối bài thơ). Trong quan hệ với cấu trúc tổng thể, câu thơ, đoạn thơ, các thanh điệu được sử dụng hết sức linh hoạt, tự do:

Vừa vẽ xong nó cất cánh

Tôi ôm khung nắng, khung gió

Nhành cây xanh hối hả đuổi theo

Xét về cú pháp, ở đoạn trên, dòng thơ đầu là một câu. Hai dòng còn lại là một câu khác, khi đọc phải liền mạch. Tiếng cuối của hai dòng đầu là thanh trắc, tiếng cuối dòng thứ ba là thanh bằng. Cách hòa thanh tạo nhịp thơ ban đầu nhanh, gấp, hối hả, sau đó giãn ra, kéo dài thanh thoát phù hợp với mạch cảm xúc trong bài.

 Con chào mào là một bài thơ giản dị, nhưng giấu kín trong đó cả một thế giới đa tầng, đa âm, gợi ra những điều buộc người đọc phải suy ngẫm.

Nhà thơ Mai Văn Phấn

Tầng thứ nhất, bài thơ là câu chuyện dung dị của nhân vật Tôi với hành trình nhận thức về mối quan hệ với tự nhiên. Bài thơ mở đầu với hình ảnh con chào mào xinh đẹp “đốm trắng mũ đỏ”, với tiếng hót lảnh lót rộn rã, trong một không gian khoáng đạt, rộng rãi “trên cây cao chót vót”. Hình ảnh con chào mào “đốm trắng mũ đỏ” như một ám ảnh chủ quan, không hề nệ thực. Đây là điều khá thú vị trong sáng tạo thơ, sẽ khó cắt nghĩa nếu chỉ nhăm nhăm tìm kiếm hình ảnh bên ngoài để đối chiếu. Nó như một tín hiệu màu sắc vụt ra trong sâu thẳm tâm thức nhà thơ, gợi dẫn về một cái gì mơ hồ, trừu tượng, nhưng rất có ý nghĩa, trước hết với chính chủ thể trữ tình. Trong thơ, không hiếm những “điểm sáng thẩm mĩ” như thế, thách thức cái gọi là sự tương thích giữa hình ảnh thơ với cái thực ngoài đời. “Nụ tầm xuân” vẫn cứ nở “xanh biếc” trong ca dao, mặc cho trên cành tầm xuân, hoa vẫn tươi hồng; màu thời gian trong thơ Đoàn Phú Tứ vẫn “tím ngát” như tự thuở nào, mặc cho từ trước đến nay chưa một ai nhìn ra cái màu ấy; mặt trời trong câu thơ Huy Cận ở bài Đoàn thuyền đánh cá vẫn cứ điềm nhiên “xuống biển như hòn lửa” dù thực tế, ngư dân vùng biển Bắc Bộ chỉ có thể nhìn thấy “mặt trời đội biển nhô màu mới”… Trong tương quan đó của thơ, hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” đâu còn là cái gì “quái đản”. Hà Minh Đức gọi những hiện tượng này là “yếu tố phi lí tính trong thơ”. Như vậy, khác với cái lôgic thông thường của tri nhận, nhà thơ rộng đường trong việc dùng chất liệu phi lí tính để đạt đến tính tượng trưng của ngôn từ, hình ảnh thơ.

Bức tranh thiên nhiên hiện ra hài hòa, sống động, một tạo tác tuyệt mĩ của tự nhiên. Vẻ đẹp ấy làm dậy lên một chuỗi những cảm xúc từ ngưỡng mộ, mê say đến khao khát chiếm hữu.

Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ

Sợ chim bay đi

Nhưng thiên nhiên không chiều theo ham muốn của con người

Vừa vẽ xong nó cất cánh

Tôi ôm khung nắng, khung gió

Nhành cây xanh hối hả đuổi theo

Có một dòng chảy gấp gáp, mạnh mẽ của cảm xúc và ý nghĩ đang chi phối toàn bộ tâm trí nhân vật trữ tình. Ham muốn chiếm hữu khiến con người làm tất cả để đạt mục đích. Nhân vật tôi ôm cả khung nắng, khung gió, cả nhành cây xanh đuổi theo con chim, hòng lấy không gian trong trẻo, tươi tắn thu hút nó. Cuộc theo đuổi dụ dỗ diễn ra trong tâm tưởng mà sức mạnh của khao khát tưởng như xô đổ cả câu chữ.

Xin được dừng ở đây để nhìn bài thơ từ mạng lưới chằng chịt của văn hóa Á Đông, nơi ý thức tôn vinh tự nhiên là một diễn ngôn tiêu biểu. Văn học Việt Nam cũng ghi nhận những ước lệ cố định về mối quan hệ hài hòa của con người với môi trường sinh thái. Đó là một quan hệ lí tưởng, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của con người với thế giới tự nhiên. Nhưng oái oăm thay đằng sau đó là nỗi sợ sinh thái. Bởi nỗi sợ ấy mà con người luôn muốn chiếm đoạt, kiểm soát, chế ngự thiên nhiên. Sâu phía dưới lòng yêu chuộng, con người hiểu rõ sức mạnh của tự nhiên. Từ góc nhìn này, bài thơ Con chào mào đứng ở tâm điểm văn hóa khu vực. Nó cho thấy chính xác tâm lí phổ biến của con người Á Đông sau những biểu hiện của một ham mê tưởng như vô hại. Thấy được điều đó mới nhận ra ý tưởng nào chi phối phần tiếp theo của bài thơ.

Trong vô tăm tích tôi nghĩ

Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu

Trái cây chín đỏ

Từng giọt nước

Thanh sạch của tôi.

Đoạn thơ trên thực sự không dễ đọc. Ngôn từ thơ đạt đến độ hàm súc nên thơ mở nghĩa ra nhiều hướng, như những vòng sóng vừa biệt lập vừa giao thoa.

Nếu nhìn từ logic tâm lí thông thường, đoạn thơ cho thấy con người không dễ buông bỏ ham muốn. Dù biết không giữ được con chào mào cho riêng mình, nhân vật trữ tình vẫn nuôi hi vọng. Người ấy vẫn mong con chim xinh đẹp đón nhận những trái cây chín đỏ, những giọt nước thanh sạch của mình như đón nhận một tấm lòng.

Nếu nhìn từ sự lí tưởng hóa, nhân vật tôi mới vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ  đã lập tức ân hận và xấu hổ. Nhận ra sự ích kỉ của mình, nhân vật trữ tình tự vẽ ra một không gian tự nhiên, giàu có, ấm áp như là món quà chuộc lỗi với con chim. Với nhân vật tôi, không gian ấy thanh sạch bởi nó không bị những ý nghĩ ích kỉ hẹp hòi làm vẩn đục.

Tác giả bài viết Đinh Thanh Huyền

Đến đây, ta hiểu thế giới tự nhiên (qua hình tượng con chào mào) không phải là đối tượng chính của lời trữ tình. Nhà thơ Mai Văn Phấn đã khẳng định trạng thái hoàn hảo của tự nhiên không phụ thuộc vào ý chí của con người. Điểm hội tụ của bài thơ chính là những cảm xúc, suy tư của con người về sự ràng buộc và cách con người can dự vào tự nhiên. Bởi những ngộ nhận về vị trí, vai trò trung tâm, đồng thời sâu trong tiềm thức là nỗi sợ sinh thái, con người đã lạm dụng quyền lực, muốn nô lệ hóa tự nhiên. Họ quên mất một điều: con người là một phần của tự nhiên, con người không thể sở hữu tự nhiên mà chỉ có thể sống hòa hợp, tương giao cùng vạn vật. Thật kì quặc khi tấn công, chiếm dụng, hủy hoại chính ngôi nhà của mình, chính sinh mạng của mình. Thật vô nghĩa khi đuổi theo chiếm hữu cái đang là chính mình. May mắn thay, bài thơ đã mở ra một thức nhận giản dị mà sâu xa: Con chào mào trong bài thơ cũng như con người, có quyền sống tự do, yên ổn với môi trường của nó. Con người chỉ nên thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên mà không được phép chiếm hữu làm của riêng. Đó mới là ý nghĩa chân thực của sự sống.

Từ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, bài thơ mở ra những tầng rất sâu, rất ấm về mối quan hệ của con người với chính mình. Không có chỗ nào dụng công, nhẹ như lời nói, thanh đạm và hồn hậu, bài thơ là một cách lắng nghe chính mình. Yêu và chiếm hữu hoàn toàn khác nhau. Khi người ta yêu tự nhiên như yêu bản thân, người ta sẽ tự do trong môi trường sinh thái vĩ đại. Nếu chiếm hữu, kẻ bị tổn thương chính là ta. Những tổn thương mà con người gặp phải hầu hết đến từ chính mình, “Kẻ gây rối đích thực nằm bên trong ta” (Dalai Lama). Kết của bài thơ gợi đến một chân lí: không mong cầu sẽ có tất cả. Đến khi nào con người biết rũ bỏ sự tham lam, nhu cầu sở hữu, chiếm đoạt, lúc ấy mọi “châu báu” của đời sống tự nhiên hiển lộ. Con người sẽ biết cách sống một cách hòa hợp với thế giới xung quanh, đắm chìm trong tiếng hót ngân vang của những tạo vật bé nhỏ và xinh đẹp như con chào mào:

triu...uýt...huýt...tu hìu...

Chẳng cần chim lại bay về

Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.

                                                                           

Hà Nội, tháng 1/2022

Đ.T.H

 

1.  Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm