TIN TỨC

Đọc bài thơ Con chào mào của Mai Văn Phấn từ góc nhìn sinh thái

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-25 23:12:50
mail facebook google pos stwis
432 lượt xem

Đinh Thanh Huyền

Tôi đang sống ở tầng 18 một căn chung cư giữa lòng thành phố, nơi mà mỗi ngày nhìn ra chỉ thấy hàng trăm cái cửa sổ giống hệt nhau như trăm con mắt rỗng mở vào không gian. Ở đó, bầu trời rất gần nhưng không hề sống động. Mây cũng rất gần nhưng giống những vết sẹo chi chít trên nền trời. Ở đó, mỗi ngày tôi thấm thía hơn những tổn thương mà con người phải chịu đựng khi xa cách với thiên nhiên. Những tổn thương ấy càng rõ khi tôi đọc bài thơ Con chào mào của Mai Văn Phấn.

Con chào mào đốm trắng mũ đỏ

Hót trên cây cao chót vót

triu...uýt...huýt...tu hìu...

 

Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ

Sợ chim bay đi

 

Vừa vẽ xong nó cất cánh

Tôi ôm khung nắng, khung gió

Nhành cây xanh hối hả đuổi theo

 

Trong vô tăm tích tôi nghĩ

Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu

Trái cây chín đỏ

Từng giọt nước

Thanh sạch của tôi.

 

triu...uýt...huýt...tu hìu...

 

Chẳng cần chim lại bay về

Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.

Bài thơ gồm 16 dòng, không có từ chỉ cảm xúc, không có tính từ (những yếu tố tạo chất trữ tình thường thấy trong thơ). Bài thơ không vần nên cũng không có âm hưởng dìu dặt quen thuộc. Nhạc tính của tác phẩm được tạo nên bởi các từ láy (chót vót, hối hả); phép điệp (khung nắng, khung gió, tiếng hót) và cấu trúc vòng tròn (sự xuất hiện của tiếng hót đầu và cuối bài thơ). Trong quan hệ với cấu trúc tổng thể, câu thơ, đoạn thơ, các thanh điệu được sử dụng hết sức linh hoạt, tự do:

Vừa vẽ xong nó cất cánh

Tôi ôm khung nắng, khung gió

Nhành cây xanh hối hả đuổi theo

Xét về cú pháp, ở đoạn trên, dòng thơ đầu là một câu. Hai dòng còn lại là một câu khác, khi đọc phải liền mạch. Tiếng cuối của hai dòng đầu là thanh trắc, tiếng cuối dòng thứ ba là thanh bằng. Cách hòa thanh tạo nhịp thơ ban đầu nhanh, gấp, hối hả, sau đó giãn ra, kéo dài thanh thoát phù hợp với mạch cảm xúc trong bài.

 Con chào mào là một bài thơ giản dị, nhưng giấu kín trong đó cả một thế giới đa tầng, đa âm, gợi ra những điều buộc người đọc phải suy ngẫm.

Nhà thơ Mai Văn Phấn

Tầng thứ nhất, bài thơ là câu chuyện dung dị của nhân vật Tôi với hành trình nhận thức về mối quan hệ với tự nhiên. Bài thơ mở đầu với hình ảnh con chào mào xinh đẹp “đốm trắng mũ đỏ”, với tiếng hót lảnh lót rộn rã, trong một không gian khoáng đạt, rộng rãi “trên cây cao chót vót”. Hình ảnh con chào mào “đốm trắng mũ đỏ” như một ám ảnh chủ quan, không hề nệ thực. Đây là điều khá thú vị trong sáng tạo thơ, sẽ khó cắt nghĩa nếu chỉ nhăm nhăm tìm kiếm hình ảnh bên ngoài để đối chiếu. Nó như một tín hiệu màu sắc vụt ra trong sâu thẳm tâm thức nhà thơ, gợi dẫn về một cái gì mơ hồ, trừu tượng, nhưng rất có ý nghĩa, trước hết với chính chủ thể trữ tình. Trong thơ, không hiếm những “điểm sáng thẩm mĩ” như thế, thách thức cái gọi là sự tương thích giữa hình ảnh thơ với cái thực ngoài đời. “Nụ tầm xuân” vẫn cứ nở “xanh biếc” trong ca dao, mặc cho trên cành tầm xuân, hoa vẫn tươi hồng; màu thời gian trong thơ Đoàn Phú Tứ vẫn “tím ngát” như tự thuở nào, mặc cho từ trước đến nay chưa một ai nhìn ra cái màu ấy; mặt trời trong câu thơ Huy Cận ở bài Đoàn thuyền đánh cá vẫn cứ điềm nhiên “xuống biển như hòn lửa” dù thực tế, ngư dân vùng biển Bắc Bộ chỉ có thể nhìn thấy “mặt trời đội biển nhô màu mới”… Trong tương quan đó của thơ, hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” đâu còn là cái gì “quái đản”. Hà Minh Đức gọi những hiện tượng này là “yếu tố phi lí tính trong thơ”. Như vậy, khác với cái lôgic thông thường của tri nhận, nhà thơ rộng đường trong việc dùng chất liệu phi lí tính để đạt đến tính tượng trưng của ngôn từ, hình ảnh thơ.

Bức tranh thiên nhiên hiện ra hài hòa, sống động, một tạo tác tuyệt mĩ của tự nhiên. Vẻ đẹp ấy làm dậy lên một chuỗi những cảm xúc từ ngưỡng mộ, mê say đến khao khát chiếm hữu.

Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ

Sợ chim bay đi

Nhưng thiên nhiên không chiều theo ham muốn của con người

Vừa vẽ xong nó cất cánh

Tôi ôm khung nắng, khung gió

Nhành cây xanh hối hả đuổi theo

Có một dòng chảy gấp gáp, mạnh mẽ của cảm xúc và ý nghĩ đang chi phối toàn bộ tâm trí nhân vật trữ tình. Ham muốn chiếm hữu khiến con người làm tất cả để đạt mục đích. Nhân vật tôi ôm cả khung nắng, khung gió, cả nhành cây xanh đuổi theo con chim, hòng lấy không gian trong trẻo, tươi tắn thu hút nó. Cuộc theo đuổi dụ dỗ diễn ra trong tâm tưởng mà sức mạnh của khao khát tưởng như xô đổ cả câu chữ.

Xin được dừng ở đây để nhìn bài thơ từ mạng lưới chằng chịt của văn hóa Á Đông, nơi ý thức tôn vinh tự nhiên là một diễn ngôn tiêu biểu. Văn học Việt Nam cũng ghi nhận những ước lệ cố định về mối quan hệ hài hòa của con người với môi trường sinh thái. Đó là một quan hệ lí tưởng, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của con người với thế giới tự nhiên. Nhưng oái oăm thay đằng sau đó là nỗi sợ sinh thái. Bởi nỗi sợ ấy mà con người luôn muốn chiếm đoạt, kiểm soát, chế ngự thiên nhiên. Sâu phía dưới lòng yêu chuộng, con người hiểu rõ sức mạnh của tự nhiên. Từ góc nhìn này, bài thơ Con chào mào đứng ở tâm điểm văn hóa khu vực. Nó cho thấy chính xác tâm lí phổ biến của con người Á Đông sau những biểu hiện của một ham mê tưởng như vô hại. Thấy được điều đó mới nhận ra ý tưởng nào chi phối phần tiếp theo của bài thơ.

Trong vô tăm tích tôi nghĩ

Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu

Trái cây chín đỏ

Từng giọt nước

Thanh sạch của tôi.

Đoạn thơ trên thực sự không dễ đọc. Ngôn từ thơ đạt đến độ hàm súc nên thơ mở nghĩa ra nhiều hướng, như những vòng sóng vừa biệt lập vừa giao thoa.

Nếu nhìn từ logic tâm lí thông thường, đoạn thơ cho thấy con người không dễ buông bỏ ham muốn. Dù biết không giữ được con chào mào cho riêng mình, nhân vật trữ tình vẫn nuôi hi vọng. Người ấy vẫn mong con chim xinh đẹp đón nhận những trái cây chín đỏ, những giọt nước thanh sạch của mình như đón nhận một tấm lòng.

Nếu nhìn từ sự lí tưởng hóa, nhân vật tôi mới vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ  đã lập tức ân hận và xấu hổ. Nhận ra sự ích kỉ của mình, nhân vật trữ tình tự vẽ ra một không gian tự nhiên, giàu có, ấm áp như là món quà chuộc lỗi với con chim. Với nhân vật tôi, không gian ấy thanh sạch bởi nó không bị những ý nghĩ ích kỉ hẹp hòi làm vẩn đục.

Tác giả bài viết Đinh Thanh Huyền

Đến đây, ta hiểu thế giới tự nhiên (qua hình tượng con chào mào) không phải là đối tượng chính của lời trữ tình. Nhà thơ Mai Văn Phấn đã khẳng định trạng thái hoàn hảo của tự nhiên không phụ thuộc vào ý chí của con người. Điểm hội tụ của bài thơ chính là những cảm xúc, suy tư của con người về sự ràng buộc và cách con người can dự vào tự nhiên. Bởi những ngộ nhận về vị trí, vai trò trung tâm, đồng thời sâu trong tiềm thức là nỗi sợ sinh thái, con người đã lạm dụng quyền lực, muốn nô lệ hóa tự nhiên. Họ quên mất một điều: con người là một phần của tự nhiên, con người không thể sở hữu tự nhiên mà chỉ có thể sống hòa hợp, tương giao cùng vạn vật. Thật kì quặc khi tấn công, chiếm dụng, hủy hoại chính ngôi nhà của mình, chính sinh mạng của mình. Thật vô nghĩa khi đuổi theo chiếm hữu cái đang là chính mình. May mắn thay, bài thơ đã mở ra một thức nhận giản dị mà sâu xa: Con chào mào trong bài thơ cũng như con người, có quyền sống tự do, yên ổn với môi trường của nó. Con người chỉ nên thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên mà không được phép chiếm hữu làm của riêng. Đó mới là ý nghĩa chân thực của sự sống.

Từ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, bài thơ mở ra những tầng rất sâu, rất ấm về mối quan hệ của con người với chính mình. Không có chỗ nào dụng công, nhẹ như lời nói, thanh đạm và hồn hậu, bài thơ là một cách lắng nghe chính mình. Yêu và chiếm hữu hoàn toàn khác nhau. Khi người ta yêu tự nhiên như yêu bản thân, người ta sẽ tự do trong môi trường sinh thái vĩ đại. Nếu chiếm hữu, kẻ bị tổn thương chính là ta. Những tổn thương mà con người gặp phải hầu hết đến từ chính mình, “Kẻ gây rối đích thực nằm bên trong ta” (Dalai Lama). Kết của bài thơ gợi đến một chân lí: không mong cầu sẽ có tất cả. Đến khi nào con người biết rũ bỏ sự tham lam, nhu cầu sở hữu, chiếm đoạt, lúc ấy mọi “châu báu” của đời sống tự nhiên hiển lộ. Con người sẽ biết cách sống một cách hòa hợp với thế giới xung quanh, đắm chìm trong tiếng hót ngân vang của những tạo vật bé nhỏ và xinh đẹp như con chào mào:

triu...uýt...huýt...tu hìu...

Chẳng cần chim lại bay về

Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.

                                                                           

Hà Nội, tháng 1/2022

Đ.T.H

 

1.  Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người làm lệch nhịp thời gian
Nếu những tập thơ trước đây của Nguyễn Quang Thiều tựa như dòng sông cuộn xiết vào mùa hạ, mang bao khát vọng, nỗi trăn trở réo gào khi chảy qua những khúc quanh, ghềnh đá..., thì đến Nhật ký người xem đồng hồ (NXB Hội Nhà văn, 2023) vừa xuất bản, người đọc được chứng kiến một dòng sông đang tan băng vào cuối xuân, song hành cùng những biến động của cuộc sống đương đại. Dòng sông ấy cuốn đi, đôi lúc phát ra tiếng nổ của những tảng băng bị rạn nứt. Từ vết nứt sắc lạnh và tối giản của ngôn từ trong tập thơ này, ta bỗng nhìn thấy những hình ảnh, tứ thơ lạ lẫm, tuyệt đẹp hiện ra trong những khoảnh khắc ngổn ngang, lo đâu, đầy bất an của đời sống thường nhật.
Xem thêm
Tần Hoài Dạ Vũ – Người thầy mẫu mực đất Quảng
Tần Hoài Dạ Vũ – nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian…xin được gọi ông là nhà nào đây ạ? Tần Hoài Dạ Vũ cười hiền lành, đầy khiêm tốn: “Cứ gọi tôi nhà giáo là được rồi!”. Người tôi nói đến, đó chính là thầy giáo Nguyễn Văn Bổn (bút danh Tần Hoài Dạ Vũ).
Xem thêm
Văn truyện của Phạm Ngọc Dũ - Cảm xúc chân thành và đầy tính nhân văn
Trước khi khai thác về văn truyện của anh, tôi xin giới thiệu đôi dòng về nhà văn Phạm Ngọc Dũ: Phạm Ngọc Dũ sinh năm 1957 tại Quảng Ngãi, hiện sống và viết tại tp HCM, Hội viên Hội Nhà văn TPHCM. Anh hiện đang là chủ biên của Tạp san Sông Quê.
Xem thêm
Dấu chân thơ – những thiên du ký bằng thơ sâu lắng ngọt ngào
Bài viết của nhà thơ Phố Giang, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Cuộc du ngoạn bằng thơ đầy cảm xúc
“NHỮNG DẤU CHÂN THƠ” Là tập thơ thứ Ba của tác giả Trần Kim Dung do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành vào đầu tháng Sáu năm 2023.
Xem thêm
‘Mười năm một quãng đường người xót xa’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập Thơ mười năm của Hoàng Đình Quang, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Dòng ban mai trong thơ Trần Hùng
Tập thơ Mắt mắt khuya từng đàn (NXB Hội Nhà văn, 2023) của Trần Hùng dẫn tôi vào một sớm đang tan sương, có thể ứng với bất kỳ mùa nào trong năm. Khi ấy hừng đông đã rạng, sưởi ấm cho khắp miền không gian nơi con người cùng vạn vật vừa thức dậy. Một ban mai không ngưng đọng mà dịch chuyển, cuộn chảy trong bầu không khí thanh sạch, tinh khôi. Dòng chảy ấy khai mở một ngày mới trong tâm tưởng bạn đọc, bảng lảng, đột sáng và trong suốt.
Xem thêm
Đại thi hào Nga Pushkin – Một thời để yêu, một thời để chết
Cái chết bi thảm của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin cách đây gần 200 năm sau cuộc quyết đấu bên bờ sông Đen (thuộc ngoại ô Peterburg) đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, đồng thời đổ ập lên đầu Natalya – vợ ông – biết bao điều tiếng…
Xem thêm
Hành trình văn học Nga ở Việt Nam: Dòng chảy không đứt đoạn
Quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) và Việt Nam được chính thức xác lập từ ngày 30/1/1950 song mối quan hệ văn chương Nga – Việt đã hình thành từ trước đó rất lâu, dưới hai hình thức: sự giao lưu văn hóa và sự tiếp nhận của những người cộng sản Việt Nam từ nền văn hóa, văn học Nga. Đi suốt thế kỷ XX và ở những năm đầu thế kỷ XIX, tuy có những lúc thăng trầm, song mối quan hệ văn chương ấy chưa bao giờ đứt đoạn!
Xem thêm
Triết lý nhân sinh trong cảm thức thơ của Hoàng Vũ Thuật
Đối với thi sĩ, cái tôi trữ tình phần nào đại diện cho những kiếp nhân sinh mà họ quan sát, gặp gỡ và cảm tưởng. Con người thi ca tìm thấy và chịu đựng được khổ đau của mình, nhưng không chịu đựng được khổ đau của nhân loại. Họ cất tiếng thay cho nhân loại, bằng trái tim đã thấm thía những nỗi đời riêng.
Xem thêm
Vàng của tâm hồn, vàng của văn chương
Bài viết của nhà văn Ngô Xuân Hội về nhà văn Nguyễn Trí
Xem thêm
Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già
Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.
Xem thêm
Từ khải ca họa mi đến thực mơ giữa đôi bờ chùa – chợ!...
Bài bình 2 bài thơ của doanh nhân - nhà thơ Trương Vạn Thành.
Xem thêm
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao
Sau ca khúc “Tiến về Hà Nội” đúng 26 năm, vào mùa xuân 1976, nhạc sĩ thiên tài Văn Cao khi có dịp vào TP.HCM, ông lại sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, viết về những cảm xúc tràn ngập tâm hồn ông trong “mùa xuân đầu tiên” sau khi nước nhà hòa bình thống nhất.
Xem thêm
Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm
Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ
Tham luận của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đọc tại buổi ra mắt tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”
Xem thêm
Nhà văn Trịnh Minh Hiếu và “Giấc cỏ dụ”
Cách đây tròn 10 năm, năm 2013, Trịnh Minh Hiếu ra mắt tập truyện ngắn đầu tay “Tiếng chuông trên đỉnh Cô Thình” (NXB Hội Nhà văn 2013). Tròn một năm sau, chị lại cho ra mắt tập truyện ngắn thứ hai mang tên “Thúy Mầu” (NXB Hội Nhà văn 2014). Hai tập truyện ngắn có cá tính riêng của chị ngày ấy khuấy động làng văn chương không ít.
Xem thêm