TIN TỨC

Giỗ bạn - Bút ký Trần Ngọc Phượng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-11-28 17:12:06
mail facebook google pos stwis
1712 lượt xem

Mọi năm vào ngày 27/7 hoặc 30/4 anh em bạn lính hay tập trung về nhà anh Khảm Long Khánh để họp mặt và làm mâm côm giỗ bạn. Những năm gần đây trên bàn thờ đặt thêm con heo quay. Giỗ chung cho tất cả bạn bè đã hy sinh trong chiến tranh Bao nhiêu người đã bỏ mình trong rừng sâu, chết vì đánh nhau với giặc, chết vì pháo bầy B52, vì bị địch càn quét , phục kích, chết vì sốt rét ác tính, vì cây đè lũ cuốn… 

Ảnh minh họa

 

 Hương khói bay

Con heo quay cúng bạn

Chỉ thương nó một thời bom đạn

Ngày ra đi chưa được bữa ăn no.

 

Mọi năm vào ngày 27/7 hoặc 30/4 anh em bạn lính hay tập trung về nhà anh Khảm Long Khánh để họp mặt và làm mâm côm giỗ bạn. Những năm gần đây trên bàn thờ đặt thêm con heo quay. Giỗ chung cho tất cả bạn bè đã hy sinh trong chiến tranh Bao nhiêu người đã bỏ mình trong rừng sâu, chết vì đánh nhau với giặc, chết vì pháo bầy B52, vì bị địch càn quét , phục kích, chết vì sốt rét ác tính, vì cây đè lũ cuốn… Mọi người lần lượt đến thắp nhang thầm gọi tên bạn mình. Mỗi nén nhang đốt lên lại hiện lên bao khuôn mặt thân quen, mà thời gian không thể nào xóa nhòa.. Bạn nhìn mình, mờ ảo trong khói đạn vẫn trẻ trung như ngày nào, nửa như khoan dung nửa như trách móc. Quên sao được những người bạn đã chết thay mình, chết cạnh mình, chính tay mình chôn cất, đã để lại bao nhiêu kỷ niệm còn ghi trong trong những trang nhật ký vàng ùa.

Năm 65 mình về C thông tin của E5 (Q5) F5 (Công trường 5). Tiểu đoàn 605 đi B của mình được bổ sung cho Trung đoàn thành Tiểu đoàn 3 và được giao đánh trận đầu tiên ổ ngã ba Ông Đồn. Mình đáng lẽ được cử mang đài đi phối thuộc, nhưng vì mới vào sốt rét nên anh Thành được cử đi thay. Trận này bên ta phục kích tiêu diệt được chi đội 13 xe bọc thép, nhưng toàn bộ Ban chỉ huy trận đánh gồm ông Thiệu Tiểu đoàn trưởng và anh Thành cùng tổ đài bị hy sinh vì bom địch oanh kích, không lấy được xác. Mình mới chỉ gặp anh Thành một lần, còn chưa nhớ mặt người đã chết thay mình.

Giữa mùa mưa năm 66, trung đoàn mình hành quân đánh nhau với lính Úc ở Long Tân Bà Rịa. Trong các đồng mình của Mỹ, lính Úc là thiện chiến nhất. Trận đánh rất ác liệt , trong mưa trời và mưa pháo bom tầm tã. Đài báo mình nói ta thắng lớn tiêu diệt gần tiểu đoàn lính Úc. Còn mình trong cuộc thấy anh em mình hy sinh nhiều lắm, Tiểu đoàn 3 của mình bị thương vong gần hết. Mình tìm hiểu mấy chục năm sau mới thây trên báo Cựu chiến binh Trung ương có bài viết về trận này với tiêu đề "Trận đánh chưa thành công,  do không hiểu địch". Ngày họp mặt sư đoàn 5, mình hỏi một thượng tá già về tiểu đoàn 3. Ông ta nói tiểu đoàn 3 thời anh, người sống chỉ còn đếm trên đầu ngón tay thôi và bây giờ già yếu cả rồi không có ai đến dự. Năm 2004 mình có đến thăm bảo tàng chiến tranh của Úc (Australian War Memorial). Trong bảo tàng có trưng bày hình ảnh kỷ vật các cuộc chiến tranh của Úc, trong đó có nói đến trận Long Tân Bà Rịa. Năm 2016 kỷ niệm 50 năm, Chính phủ Úc có đề nghị Chính phủ  mình cho các cựu chiến binh của Úc thăm lại chiến trường xưa.

Năm 67 đài mình được bổ sung cho A20 làm nhiệm vụ liên lạc nhận vũ khí từ các tầu không số ở bờ biển Bình Châu Hồ Tràm Bà Rịa. Đơn vị biên chế gọn nhe, ngoài Ban Chỉ huy do anh Hai Bình cán bộ tập kết phụ trách, còn lại là các anh em trinh sát quê tại địa phương. Lúc này địch bố ráp rất dữ. Tổ trinh sát do anh Hai Bình phụ trách bị phục kính giữa bãi cát trắng Hồ Tràm. Máy bay địch bao vây tứ phía Anh em chiến đấu đến người cuối cùng. Anh Hai Bình bị địch bắn chết, bêu xác phơi nắng mấy ngày. Dân thương đến lấy xác về chôn. Sau hòa bình mai táng tại nghĩa trang Xuyên Mộc. Gia đình mấy chục năm sau mới tìm thấy mộ vì khi vào nam anh lấy tên con là Bình làm biệt danh của mình. Bãi cát Hồ Tràm nơi các anh hy sinh, bây gờ mọc lên tổ hợp casino cao cấp phục vụ cho người có tiền. Đoàn CCB mình đến thăm chỉ đứng nhìn bên ngoài.

Dũng quê Thanh Hóa cơ yếu hy sinh cạnh mình trong trận càn của địch xuân Mậu Thân 68. Sau đợt pháo bày, mình quay lại thấy Dũng còn đứng trơ trơ nhe răng cười ở miệng hầm Mình vừa la vừa chạy đến. Thì ra mảnh phào đã xuyên đúng tim của Dũng. Mình chỉ kịp vuốt mắt cho Dũng rồi tay lại nhăm nhăm khẩu súng để chuẩn bị đón địch. Mấy phút trước anh em còn dặn nhau không để tài liệu máy móc rơi vào tay địch, mỗi người chuẩn bị cho mình quả lựu đạn để tử thủ.

Trong quyển sổ tay nhật ký ngày ấy còn ghi lại bài thơ thương nhớ bạn với câu thơ mộc mạc;

Dũng chết rồi Dũng không còn nữa

Tim không đập và ngực không còn thở

Dũng chết rồi có phải thật không?

"Nét mặt đây máu vẫn tươi hồng

Mắt nhắm lại, hiền lành như giấc ngủ

Mình bàng hoàng  không thể nào tin được

Dũng bỏ mình đi không nói đến một lời.

....Từ nay mỗi dòng sông ta qua

Mỗi con  đường ta bước

Sao xót xa lòng ta muốn khóc

Dũng thân yêu ,Dũng chẳng còn đâu".

Chiến tranh sống nay chết mai, nhiều khi xem cái chết cũng là chuyện bình thường. Mỗi ngày rơi rụng một ít. Rồi lần lượt cũng đến lượt mình. Nghĩ vậy càng thấm đạo lý tình nghĩa sống ở trên đời. Đón vị mình có anh Chước. Trước khi đi bộ đội anh làm thầy cúng. Anh rất tin phong thủy, tướng số.. Trước hôm ra trận , anh dứt khoát không ăn cơm khê dù đang bị đói. Anh cho rằng ăn cơm khê sẽ bị sui xẻo Chi đoàn đem ra họp phê bình anh mê tín dị đoan. Anh không nói gì Ít lâu sau trong trận chống càn anh hy sinh khi xung phong đi đầu dẫn đường.

Và đây Nguyễn Thanh Tề, đồng đội kiên cường, người bạn, ngưới em đồng hương thân yêu. “Nhớ chiều em ra đi , trước lúc lên đường, em chay đi chạy lại rộn rã. Vẫn khuôn mặt vui nhôn, thỉnh thoảng lại nheo mắt cười tinh nghịch. Em đi giầy, tay áo xắn cao. Sức sống thanh xuân tràn đầy trong đôi mắt tự tin. Người chiến sĩ trinh sát như em đã quen đi đầu, xông xáo trong mũi tên hòn đạn. Cái chết đã đùa dỡn với em mấy lần đó sao. Bom Mỹ đã vùi em, trực thăng đã dí em, rải đạn chi chí quanh người em . Có kỳ em đi đưa thư 5, 6 ngày không về, ở nhà ai cũng lo lắng sốt ruột.

Nhưng nào em có chết. Em trở về và đáp lại lòng mong mỏi sốt ruột của mọi người vẫn là nụ cười. Nụ cười anh không bao giờ quên được, nụ cười trên khuôn mặt sạm đen bám đầy đất cát. Nụ cười từ cõi chết .Thế là hôm đó đơn vị có gì đem ra liên hoan hết".

Đọc lại những dòng nhật ký mà rưng rưng nước mắt. Anh gặp em vào mùa mưa năm 73, khi em được bổ sung làm lính trinh sát của Tiền phương cánh 1. Một cậu tân binh trẻ măng, hồn nhiên vui nhôn, hát chèo rất hay, mang dáng dấp của đồng quê chiêm trũng. Những lúc rỗi rãi em thường sang bên anh, nằm chung võng kể chuyện quê hương, nghêu ngao  mấy câu cò lả, xẩm soan.

Nhiều lần thoát chết trở về, anh em lại quây quần bên ấm trà, có gì đem liên hoan hết. Mọi người lại sôi nổi hò hét vui đùa. Không ai nghĩ và nói đến cái chết làm gì. Thỉnh thoảng anh cũng nhắc em phải chú ý cẩn thận vì bom đạn chẳng chừa một ai. Em nheo mắt cườii, lý sự lại : Con người có số bom đạn tránh mình, mình tránh chúng sao được. Này nhé chúng mình dễ gì chết.

 -Rừng mênh mong như vậy bom ném chưa chắc rơi vào cứ

- Vào cứ thì sao?

-Nếu vào cứ chưa chắc đã trúng hầm

-Nếu trúng hầm chưa chắc đã bị thương

-Nếu bị thương chưa chắc đã chết

-Nếu chết chưa chắc đã mất xác

Anh em hỏi dồn Nếu mất xác thì sao?

Bí quá cậu ta trả lời;  Thì còn các tương đài và nấm mộ vô danh.

Rồi Tề đã hy sinh vào một chiều mưa tháng 6 năm 73. Anh bị địch phục kích khi dẫn đoàn cán bộ vượt lộ 14. Không lấy được xác.

Mình cảm xúc viết bài thơ bên nấm mộ vô danh

 

BÊN NẤM MỘ VÔ DANH

Tặng hương hồn em Thanh Tề

Thắp nhang lên

Thấy em hiện về

Nheo mắt cười tinh nghịch

"Chúng mình dễ gì chết

Bom đạn tránh mìn, Mình tránh chúng làm chi"

 

Buổi chiều em ra đi

Mưa giăng giăng ngoài lộ

Áo sắn tay

Tiểu liên quàng trước cổ

Em hiên ngang đi trước hàng quân..

 

Em ngã xuống

Tư thế tiến công

Trong trận đánh kẻ thù động gấp bội

Xác để lại bên cánh rừng lầy lội

Buổi chiều hoang tê tái mưa sa

 

Mấy chục năm qua

Đồng đội gắng công

Mẹ cha ta khó nhọc

Vái bốn phương trời

Chưa tìm thấy mộ em

 

Đất nước mình mênh mông

Cong cong hình chữ S

Làm sao anh đi hết

Vạn nấm mộ vô danh

Ngàn tượng đài liệt sĩ

Sao lúc hiện về, em không chỉ

Nấm mộ nào là nấm mộ của em

 

Chỉ thấy em về

Nheo mắt cười tinh nghịch

"Chúng mình dễ gì chết

Nếu chết rồi dễ gì mất xác

Mất xác rồi, còn nấm mộ vô danh".

Trần Ngọc Phượng

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm