TIN TỨC

Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-06-05 14:54:44
mail facebook google pos stwis
1061 lượt xem

 Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.

Nhà thơ Lê Khánh Mai

“Chọn nghề văn, được đào tạo nghề văn, suốt đời chỉ làm duy nhất nghề văn, tôi thấm thía đến tận cùng nỗi khổ ải và niềm hạnh phúc của nghề này. Yêu con người, trách nhiệm cao, lao động kiệt lực và dấn thân như bị “giời đày” là phẩm chất tự thân của nhà văn. Đôi khi tôi cảm nhận một sức mạnh quyền năng vô hình nào đó mách bảo và điều khiển ngòi bút của mình như là định mệnh.” (Lê Khánh Mai – Suy nghĩ về nghề văn)(1)

Qua phát biểu của tác giả, có thể nhận thấy quan niệm và quá trình sáng tạo nghiêm cẩn của một ngòi bút suốt đời sống và cống hiến cho văn chương nói chung, thơ ca nói riêng. Chính vì thế, luôn cách tân thơ, khát vọng bứt phá không chỉ ở cách lập ngôn mà quan trọng hơn, nó xuyên thấm trong từng tác phẩm, từng câu chữ của nhà thơ Lê Khánh Mai.

Thơ Lê Khánh Mai và quan niệm nghệ thuật

Nhà thơ Lê Khánh Mai từng viết: “Tôi có thói quen, khi đọc bất kỳ tập thơ nào, tôi tìm những câu thơ chứa đựng chỉ dấu về quan niệm nghệ thuật của tác giả, vì tin đó là chiếc chìa khoá có thể mở ra bí mật đằng sau những con chữ.”(2)

Đó là kinh nghiệm tiếp cận thơ xuất phát từ thực tiễn sáng tạo của một cây bút đầy tràn năng lượng và năng lực. Mở tập thơ nào của Lê Khánh Mai, chúng ta cũng có thể gặp được “chiếc chìa khoá” ấy để mở ra một thế giới nghệ thuật tầng tầng những ẩn ngôn về tình yêu thi ca, tình yêu con người và sự sống. Rất nhiều những thi phẩm được Lê Khánh Mai ký thác một cách nghệ thuật quan niệm của mình về thơ, nhà thơ, yêu cầu sáng tạo, như: Nhà thơ nữ bứt phá, Khát, Ơi người!,

Nhà thơ, Tôi và thơ, Tâm sự thơ ca, Uống rượu với bạn thơ Đăk lăk, Hát một mình trong sương mù, Xanh, Em yêu Anh, Không điểm tựa, Tri kỷ, Vũ trụ đơn côi, Sống, Miền hoang tưởng,…

Thơ là tiếng nói trữ tình. Tình cảm, cảm xúc trong thơ không nên hiểu đơn giản chỉ là tâm, tình của riêng nhà thơ, mặc dù nếu không có sự rung động, rung cảm mãnh liệt thì nhà thơ không thể làm thơ. Thơ là tiếng lòng của một người mà ngân rung cho nỗi niềm bao người. Với những nhà thơ lớn, những vấn đề được đề cập trong tác phẩm của họ tuy xuất phát từ cảm quan cá nhân nhưng không dừng lại ở chuyện cá nhân. Khi nhà thơ cất tiếng, thi tứ nảy sinh từ thực tiễn sống của chính nhà thơ nhưng đích đến lại là độ phổ quát. Vì thế, những ý thơ, tiếng thơ giàu giá trị có thể vượt qua được quy luật thời gian nghiệt ngã:

đường đời thăm thẳm

thơ dìu nỗi khổ đau

trong vô lượng thời gian

(Hát một mình trong sương mù)

Là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc, thơ cũng hoá bất định, thơ là cả một thế giới diệu kỳ, huyền ảo, bất định giữa thực và ảo, thực và mơ, thực và mộng:

thơ em chao giữa hai miền hư thực

cơn mơ lành cũng hoá chênh vênh

(Khát)

Bản chất, cốt cách của thi sĩ vốn rất nhạy cảm, nhạy cảm đến đa cảm. Thi sĩ vốn giàu tình yêu thương, lòng trắc ẩn vì thế mà đa tình và cũng đa đoan:

thương sao cái kiếp đa tình

lấy hư ảo để ru mình người ơi

(Ơi người!)

Trong sáng tạo và có khi cả trong đời, người làm thơ thường trực một cảm giác cô đơn. Nói cách khác, với nghệ sĩ, cô đơn vừa là trạng thái có thực vừa là yêu cầu để sáng tạo (trạng thái cần phải có). Chỉ một mình nhà thơ mới có thể hoá giải nổi trạng thái cô đơn ấy bằng cách tạo tác. Quá trình sáng tạo chân chính thực sự không hề dễ dàng:

Thánh giá của riêng mình

Mang trong tim khó nhọc

Cuộc hành trình đơn độc

La Mã vời vợi xa.

(Nhà thơ)

Không chấp nhận lao động chữ nghĩa dễ dãi, mỗi bài thơ là cả một hành

trình dài và nhọc. Muốn có được nó, nhà thơ đã phải lao tâm khổ tứ như vắt kiệt mình:

Mỗi câu thơ mang bóng dáng nụ cười

hay nước mắt buồn đau số phận

tôi đã đổi bằng bao cay đắng

có khi như vắt kiệt chính mình

(Tâm sự thơ ca)

Nhà thơ Lê Khánh Mai cũng cho rằng thơ có sức mạnh của một chỗ dựa, là điểm tựa để con người vượt qua yếu đuối, thất vọng, thất bại. Thơ là sức mạnh tinh thần có thể nâng đỡ, vực dậy con người từ trong đau khổ, mất mát, gục ngã:

Tôi đói

thơ không thể là cơm ăn

Tôi khát

thơ không biến thành nước uống

Tôi nợ nần

thơ không đem cho tiền bạc

Nhưng khi tôi rơi xuống hố thẳm khổ đau

thơ vực tôi đứng dậy.

(Tôi và thơ)

Để thơ phát huy được chức năng nâng đỡ con người, nhà thơ luôn tìm tòi, bứt phá để mỗi tứ thơ thực sự là một đóng góp mới mẻ, chí ít cũng không phải là một cái bóng, mà tác giả gọi là “dị bản”, dù là cái bóng của chính mình:

Em muốn xoá bóng mình – dị bản

để chỉ còn đích thực em thôi

(Dị bản)

Để đạt được sự bứt phá liên tục trên hành trình sáng tạo, nhà thơ Lê Khánh Mai luôn cảm nhận có tiếng gọi khẩn thiết từ trong sâu thẳm tâm hồn mình: phải viết khác, muốn viết khác phải sống khác. Không thể làm thơ trong không gian, công việc quá quen thuộc đến đơn điệu, nhàm chán, nhà thơ chọn con đường tự trải nghiệm để sống sâu với cuộc đời và con người:

Người khuyên thơ nên bám vào đời sống

bạn chê thơ ta cũ rồi

ta cũng chán điệu thơ đều chằn chặn, hiền lành, ướt đẫm

vang tự hồn sâu phải sống khác thôi

không sống khác không thể nào viết được

mơ hồ tiếng gọi phía chân trời

nhưng tiếng gọi từ máu là rất thật

(Nhà thơ nữ bứt phá)

Những câu thơ chứa đựng quan niệm về thơ của nhà thơ Lê Khánh Mai không khác nào những tấm chân dung nổi bật trên bức tường nghệ thuật phong phú những mảng màu sắc, hình ảnh, đường nét của tác giả. Mà nói như nhà thơ Lê Khánh Mai, đó chính là những chỉ dấu quan trọng đường lối khám phá thế giới nghệ thuật của chính tác giả – một nhà thơ nữ tài hoa nhưng không ngừng bứt phá trên hành trình sáng tạo.

 

Thế giới thơ Lê Khánh Mai và một số chỉ dấu bứt phá

Có thể nhận thấy, thơ Lê Khánh Mai viết nhiều, rất nhiều về người nữ, hình thành một thế giới hình tượng người đàn bà trong thơ: người đàn bà bán rau (Người đàn bà bán rau), người đàn gom rác (Người đàn bà gom rác), người đàn bà nội trợ (Người đàn bà đi chợ), người đàn bà goá bụa cô đơn (Chiều ơi!, Cơn giông lúc nửa đêm, Ở cuối con đường, Giãi bày, Khoảng cách này đâu phải vĩnh hằng, Gió,…), nhiều nhất và quan trọng nhất là người đàn bà làm thơ (Bạn gái, Cho một người đàn bà, Người đàn bà im lặng như cát, Nhà thơ nữ bứt phá, Người đàn bà đi tìm tiếng chuông,…).

Điểm chung của hình tượng người đàn bà trong thơ Lê Khánh Mai là họ luôn đối diện với định kiến của xã hội đối với người nữ, đặc biệt là người nữ làm thơ – những cá nhân-cá thể tinh hoa:

Nơi vực tối của thân phận, em nhận rõ bất công tạo hoá

và nhẫn nại cưu mang nỗi mặc cảm không lời

……………………………….

nắng mê muội ngã vào hoa để lên hương sắc

gió đa mang hôn lá biếc nhiệt cuồng

trách chi người không nhận ra em

phía khuất chìm hồn đau ngọc nát

(Cho một người đàn bà)

Nhà thơ Lê Khánh Mai thường chìm đắm suy tư về phận, thân phận người nữ. Nhiều lần, nhà thơ dùng từ “phận”, “thân phận”, “bổn phận”, có khi gọi thẳng ra là “cam phận” (Kiếp vọng phu, Bổn phận, Đoản ca về nỗi cam phận):

Như thân cây bị đốn dần dần

không gục ngã, sẹo dày lên chai ráp

còn một chút phôi xanh

dịu mềm ẩn trong khô xác

bí mật dìu nỗi cam phận đi trên thế gian

(Đoản ca về nỗi cam phận)

Với tư cách là người trong cuộc, Lê Khánh Mai không ít lần đề cập đến “phận thơ” của người nữ làm thơ. Bài thơ Nhà thơ nữ bứt phá chiếm một vị trí khá đặc biệt trong vườn thơ Lê Khánh Mai, bởi giọng điệu vừa trần tình vừa chua chát, vừa day dứt vừa giằng xé:

Gom từng đồng còm nhuận bút ta đi hoang

vừa khỏi nhà đã thân gái dặm trường

đi đâu, về đâu?

“Đi hoang” – đi ra khỏi nhà, thoát ra khỏi nhịp sống đơn điệu, nhàm quen – để thay đổi không khí, để tìm cảm hứng cho thơ. Bởi vì đến ta, “ta cũng chán điệu thơ chằn chặn, hiền lành, ướt đẫm” của ta, huống chi, “bạn chê thơ ta cũ rồi”. Khát vọng đi tìm nguồn cảm hứng cho một thứ thơ mới, quả là chính đáng và đầy trách nhiệm. Nhưng rồi:

bạn cùng ta “bứt phá”

lang thang quên mình là đàn bà

sông đấy – như ta lững lờ

cây kia – giống mình ta tù hãm

bao đền đài thơ sừng sững

ta gieo xác chữ ích gì

Khổ cuối đọng lại nỗi buồn chơi vơi, hụt hẫng khi trở về với “phận thơ”, sau khi đã biết va đập với cuộc đời, thơ với người nữ là sự hi sinh, là chấp nhận, là định mệnh “oan nghiệt”:

Về nhà con vui thoát được bếp núc

mắt ai ngun ngún buồn

ta ru bình yên ngày thường

oan nghiệt phận thơ – tiếng kêu máu vỡ

Khi nhà thơ Lê Khánh Mai bộc bạch hành trình đi tìm “bản thể” (tên một bài thơ trong tập Mật ngôn của tình yêu), bạn đọc chúng ta có thể tin rằng, đây không phải là chuyện tìm kiếm bản thể cá nhân mà là hành trình xác nhận bản thể nữ giới, xác nhận nữ quyền. Bởi, nhà thơ hiểu rõ, rất rõ mình là ai, mình muốn gì trên con đường lên tiếng khẳng định bản thể – một người nữ sống hết mình cho thơ:

tự bao giờ bản thể sống cô đơn trong thân xác ta mà ta nào

biết, ta mải miết đi tìm những thứ ở ngoài mình

hạnh phúc biết bao khi ta được trở về đích thực là mình sau

những kiếm tìm, trải nghiệm điều đắng cay, mất mát

dù nhỏ bé, bản thể vẫn là vũ trụ của riêng mỗi người, nó chỉ

một lần được sinh ra giữa vô vàn thực thể và sống dài hơn một kiếp

sống.

(Bản thể)

Chính ở điểm “sống dài hơn một kiếp sống” ấy tưởng là phi lý nhưng khi lắng đọng lại, có thể hiểu đó là khát khao của người sáng tạo: tác phẩm của họ còn lại giữa cuộc đời khi tác giả của nó không còn hiện hữu nữa sẽ tự có cách phát ngôn riêng, hướng đến khát vọng bất tử. Ai làm thơ mà không mơ ước, mơ mộng như thế?

Khi đã thấu thị về mình, rộng ra là về giới nữ làm thơ, nhà thơ Lê Khánh Mai không ít lần muốn thơ vươn về phía ánh sáng màu nhiệm, vĩnh cửu của nghệ thuật:

ánh sáng chống lại bóng tối

đánh thức những cơn mê

bật dậy những hạt máu li ti

mạnh hơn ngựa chiến

………………………….

ở đâu

và bất cứ lúc nào

sự tái sinh của ánh sáng

không bao giờ là muộn.

(Ánh sáng)

Hiểu rõ như vậy nên nữ sĩ luôn vươn tới những giấc mơ, những chân trời rất riêng – “chân trời màu lam” – ở đó, cái tôi bản thể được thể hiện và sinh tồn:

Giấc mơ tôi hái từ cơn giông

không hình thù, màu sắc

nhưng tôi biết nó rất mỏng manh và tơ non

tôi nâng niu cất giữ trong ngăn tủ tâm hồn

như báu vật

………………

Có ai biết

tôi đã vắt kiệt mình

để nuôi một giấc mơ

(Giấc mơ tôi hái)

Tập thơ mới nhất – tập Mật ngôn của tình yêu – là đỉnh điểm trong hành trình sáng tạo của nữ sĩ Lê Khánh Mai (tính đến thời điểm hiện tại). Ở đây, những thi phẩm mang màu sắc suy tư, triết lý về thi ca, về vũ trụ, về nhân sinh, về bản thể,…phát triển thành hệ thống trong lối thơ tự do, thơ văn xuôi khiến cho tập thơ mang sức hấp dẫn bởi vẻ đẹp trí tuệ:

đôi khi trong dàn đồng ca ta hoà giọng

chỉ để hát bài hát của riêng mình

không cần ai nghe thấy

(Không điểm tựa)

Khoảng trống – một “Con Người” không hình dạng, không gương mặt, không tiếng nói nhưng đã che chắn cho ta, nâng đỡ ta, an ủi ta. Và ta biết đó là người duy nhất sẽ đi cùng ta về phía vô biên.

(Khoảng trống)

 

Nghệ thuật biểu đạt luôn sáng tạo

Nói nhà thơ Lê Khánh Mai là nhà thơ của tình yêu thật không sai. Thơ Lê Khánh Mai viết nhiều về tình yêu, nhất là tình yêu vợ chồng với một lối biểu đạt tài năng và rất cá tính – đầy khao khát, nồng nàn đến nồng cháy, bùng vỡ. Nồng nàn, mê đắm nhưng vẫn tinh tế, thi vị nhờ những so sánh, ẩn dụ, tượng trưng bàng bạc khắp những trang thơ. Nhà thơ không chọn lối biểu đạt bằng cách diễn tả táo bạo đến táo tợn vốn là tâm điểm của trào lưu hậu hiện đại đang rất phổ biến trong giới nữ thi sĩ. Trái lại, lối biểu đạt ở đây nghiêng về thi pháp thơ tượng trưng:

em mở toang cánh cửa đón gió vào nhà

gió quấn em mê mải, hệt như anh trở về sau chuyến đi xa

(Khoảng cách này đâu phải vĩnh hằng)

đêm

căn phòng trống trải

bỗng ngập tràn mùi hương ân ái

cái mùi hương đi vắng đã mười năm

trở về

ướp lên mái tóc em

ủ thơm chăn gối

mơn man da thịt hồi sinh

nồng nàn hơi thở thương quen

riết róng vòng tay êm ấm

thảng thốt nụ hôn muộn mằn sau quên lãng

ngân lên da diết cung đàn xưa

bản tụng ca tình yêu dang dở

nước mắt đọng bờ mi hạnh ngộ

em như cây khô vừa nhú lộc non

(Mật ngôn của tình yêu)

Sự khát khao nhân bản của người nữ được tác giả diễn tả khéo léo, tránh được sự thô vụng, tránh được luôn sự xơ cứng. Quả là những câu thơ được viết bằng trực cảm xuất phát từ trong tâm cảm:

những câu thơ

như chú ngựa bất kham trong lồng ngực

mơ một ngày tung vó thảo nguyên

theo ráng đỏ

chân trời huyễn hoặc

(Khát)

Thơ Lê Khánh Mai rất giàu hình ảnh, hình tượng, nhiều hình tượng trở đi trở lại, gây cảm xúc mạnh mẽ và ám thị lâu dài. Giấc mơ, cơn giông, gió mạnh (giông gió), mưa gió, nước mắt,… là những biểu tượng đầy mỹ cảm của thơ Lê Khánh Mai. Tập thơ Giấc mơ hái từ cơn giông có nhiều bài thơ đề cập trực tiếp đến những biểu tượng này: Giấc mơ, Khóc giấc mơ gãy cánh, Cõi mưa, Nước mắt chảy về đâu, Cơn giông lúc nửa đêm, Giấc mơ tôi hái, Gió,… Dễ nhận thấy, sự thiệt thòi của “phận” lộ rõ ở đây mà những khát khao hoặc âm thầm hoặc dữ dội của “giới” cũng bộc lộ ở đây:

Cơn giông đổ về lúc nửa đêm

sấm vỡ oà

mưa trút đá

cây lá vặn mình rên tơi tả

trời đất say cuồng giao hoan

Cánh cửa ngôi nhà đã bị giật tung

em chợt tỉnh cơn mơ hái được chùm mây ngũ sắc

……………………………………

em như vừa sinh ra giữa buổi hồng hoang

mắt chưa mở được

chỉ nghe lao xao tiếng vọng trần gian

ngôi nhà giống như con tàu đứt neo, dạt về cõi lạ

và em xa lạ với chính em

cố níu vào đêm

mong chạm hơi thở anh quen thuộc

thất lạc những ngón mềm, chới với hư không

(Cơn giông lúc nửa đêm)

gió rào rạt reo bên những lùm cây

gió ùa về chật đầy không gian rỗng

gió lùa tóc em líu ríu tung bay

gió quấn thân thể em riết róng

anh đi đâu xa vừa về phải không?

em biết gió là linh hồn anh đấy

(Gió)

Trong các tập thơ của nhà thơ Lê Khánh Mai – nhà thơ xứ biển – xuất hiện rất nhiều hình tượng biển, sóng, cát, bờ,… như trong Biển thầm, Đêm ở biển, Nghĩ bên biển, Biển tím, Sóng, Bờ và sóng, Cát mặn, Tính cách biển, Người đàn bà im lặng như cát,… Cách nghĩ về biển của Lê Khánh Mai cũng thật khác lạ, biển vô tình, biển chẳng đau khổ bao giờ nên biển vĩnh hằng:

ta biết lắm biển ơi, người chẳng đau khổ bao giờ

những gươm đá dựng bên ghềnh sắc lạnh

con sóng rơi đầu, con sóng lại chồm lên

chai lì những vết thương, chai lì muôn khát vọng

có phải vĩnh hằng kia làm biển vô tình

(Biển thầm)

Tương quan giữa biển – sóng là tương quan giữa người nam – người nữ nhưng ngẫm kỹ thì sóng (em) dữ dội hơn biển (anh) rất nhiều, chai lì hơn nhiều, kiên định hơn nhiều. Vì thế, đã có lúc nhà thơ hỏi:

Và anh, có giống như biển cả

có đủ mặn mà để nuôi tình em

đủ mạnh mẽ để vượt qua bão tố

đủ vô biên để trọn kiếp bên nhau?

(Nghĩ bên biển)

Ở một tứ thơ khác, Lê Khánh Mai dùng cặp biểu tượng sóng – đại dương để tượng trưng về khát vọng thay đổi, nhưng khát vọng ấy bị cái giới hạn đóng khung, câu thúc ngay. Lúc này, đại dương ngàn trùng mà trở nên bé tí – cách lạ hoá thật ấn tượng, sâu sắc:

bao nhiêu con sóng đi hoang

vẫn không thoát được đại dương ngàn trùng

(Sóng)

Nhìn vào tên những tập thơ, văn của Lê Khánh Mai, có thể thấy sự suy tư, ưu tư sâu thẳm trong tư tưởng-cảm xúc nghệ thuật của tác giả: Trái chín (tập thơ), Nước mắt chảy về đâu (tập thơ), Cổ tích xanh (tập thơ), Cát mặn (tập thơ), Đẹp, buồn và trong suốt như sương (tập thơ), Giấc mơ hái từ cơn giông (tập thơ), Mật ngôn của tình yêu (tập thơ), Vọng âm của mạch ngầm (phê bình văn học), Những mạch sống nâu trầm (tản văn và tuỳ bút),… Có thể nói, đó là những tựa sách được chọn lựa kỹ lưỡng, tự hiểu “bản thể” và mang nhiều thông điệp thông qua ẩn ngữ đa tầng, đa nghĩa. Nhìn tổng thể, tựa sách Lê Khánh Mai đậm tính trí tuệ và giàu tính biểu tượng.

Như ở trên đã nói, Lê Khánh Mai say mê yêu – yêu “anh”, yêu người, yêu đời và yêu thơ – không hiếm khi yêu đến mê cuồng, thậm chí muốn phá bỏ, cởi bỏ ẩn ức. Vậy nhưng nhà thơ vẫn trung thành với phong cách thể hiện nghiêm cẩn. Vẫn ở đường biên của sự nghiêm cẩn, thế giới nghệ thuật thơ Lê Khánh Mai làm nên một gương mặt thơ nữ sâu sắc, sâu lắng. Nữ tính nhưng cá tính là giọng điệu chính của thơ Lê Khánh Mai.

Đôi dòng kết luận

Thơ Lê Khánh Mai xoay quanh nhiều đề tài: tình yêu đất nước, quê hương, tình gia đình (vợ chồng, cha con, mẹ con), tình bạn bè,… nhưng nhiều và sâu đậm nhất vẫn là tình yêu dành cho thơ và người bạn đời quá cố. Những tứ thơ của nữ thi sĩ giàu cảm xúc, suy tư, triết lý nên có thể gọi đó là thơ suy cảm, suy cảm từ cả hai phía: người tạo tác và người tiếp nhận. Một số bài thơ quả như có “một sức mạnh quyền năng vô hình nào đó mách bảo và điều khiển ngòi bút như là định mệnh”, nhất là khi nhà thơ “tuyên ngôn” về thơ và nhà thơ.

Đọc thơ Lê Khánh Mai, từ Trái chín (1990), Nước mắt chảy về đâu (1998), Cổ tích xanh (2000), Cát mặn (2001) đến Đẹp, buồn và trong suốt như sương (2005), Giấc mơ hái từ cơn giông (2008), đặc biệt là Mật ngôn của tình yêu (2019), có thể hình dung một dòng thơ luôn chảy thao thiết, sâu thẳm, càng lúc càng mở rộng bờ bãi trù phú, xanh ròng sự sống. Thơ Lê Khánh Mai là dòng chảy miên man của niềm khát sống, khát yêu, khao khát được sáng tạo của một nhà thơ nữ đích thực. Quan trọng hơn cả, trên dòng sông thơ ấy, một thế giới nghệ thuật bừng lên thứ ánh sáng rỡ ràng từ cao xanh như một định mệnh màu nhiệm:

bừng sáng một khoảng không gian

xa thẳm

đột nhiên

không nhìn thấy gì khác bên ngoài ánh sáng

(Ánh sáng)

CHẾ DIỄM TRÂM/VANVN

————————————————————

(1) Nhà văn Việt Nam hiện đại, Hội Nhà văn Việt Nam, 2007, trang 593.

(2) Lê Khánh Mai, Những mạch sống nâu trầm, NXB Hội Nhà văn, 2023, trang 135.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm