TIN TỨC

‘Mật mã’ Lê Nhi: Mang chợ vào thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-15 10:42:34
mail facebook google pos stwis
2059 lượt xem

Khét

 Tôi bắt gặp Lê Nhi từ những bài thơ đăng trên trang web của Hội Nhà văn Việt Nam, sẽ không có gì đáng nhớ hay đáng nhắc đến nếu những bài thơ đó không có gì đặc sắc thì hẳn sẽ “quên ngay sau khi đọc”, thơ Lê Nhi đã cho tôi một khía cạnh mới là: Chợ.

Có người từng nói rằng: Thơ Việt ta nhìn đâu cũng thấy ruộng đồng, quê hương. Điều này đã làm tôi băn khoăn, vì quả thật như thế. Đôi lúc tôi cũng chán chê những vần thơ quanh quẩn ruộng lúa sau nhà, chái bếp, vì thật ra cuộc sống ta đâu chỉ có một màu như thế, nhưng để mang chợ vào thơ là điều không dễ dàng, đơn giản vì nó thô, ít thơ. Với Lê Nhi thì khác, có lẽ cô là một mảnh ghép của thơ mà ta đang thiếu, như cô từng định nghĩa mình theo cách rất thật thà nhưng cũng rất chợ:

tôi biết lừa lọc

tôi biết hờn dỗi

tôi biết nói điêu

buộc vào tôi

kẻ chợ!

(linh hồn)

Và hiển nhiên, tập thơ Mật mã này cũng đầy màu sắc, màu sắc phơi bày theo con chữ, những quần, những áo bày la liệt trên các gian hàng đợi người ghé qua cân, đo, đong, đếm. Ai bảo đồ vật vô tri vô giác khi những mưa nắng ngột ngạt trên mái tôn, rì rầm nơi góc phố? “nóc chợ đang nói chuyện với tôi/ về khuôn đời mang hình hài diêm dúa// một đôi giày lỗi mốt// tôi thấy tôi mọc dưới vệt đường// cõng những phom hiện đại đính cườm xanh đỏ” (chạm chân người)


Bìa tập thơ “Mật mã” của Lê Nhi.

Thơ Lê Nhi gá mình cho phố. Những tưởng nơi ồn ào đấy sẽ che lấp được sự lẻ loi, nhưng không, cảm thức cô đơn lại càng xâm chiếm, nó ăn mòn dần tâm hồn cô, càng nhộp nhịp đông vui lại càng hoang lạnh. Lật từng trang Mật mã, tôi lại càng nghĩ đến một con người cô độc lọt thỏm giữa chợ. Ở đấy, tất cả đều có thể ngã giá, đổi chát, nhưng ta lấy gì để đổi một linh hồn? – Hẳn nhiên không ai bán, cũng chẳng ai cần mua, và hơn nữa, ít ai muốn khơi gợi đến nó. Tất cả đều thúc giục sự le lói trong tâm thức cô bật thành tiếng kêu, tiếng kêu ấy thảng thốt giữa chợ mà không một ai nghe:

khi không nổi loạn đươc

đêm giãy giụa dưới đáy ly không thốt lên lời

sao chiếc son môi còn hân hoan dưới  kệ

sao chiếc váy hai dây mỏng manh cấu cào

 

tôi với tay xé nát mình trong chiếc gương trần tục

cái bóng cười khanh khách vào mặt tôi

(đi vào chiếc gương)

Tự thấu mình là thế, như làm sao để thoát ra, khi chúng ta, ai cũng ít nhất một lần bị “cầm tù” mà không hay biết! – Giải thoát là điều cần kíp, cũng như những người làm thơ, đôi lần chối bỏ mình, phân tách mình ra, ngồi đối diện với nó, chất vấn nó, phân trần nó, van nài nó,… để được sống! Cô ấy cũng không ngoại lệ: “thành phố không em nữa/ mùa vỡ oà/ ngác ngơ/ ôm bao nhiêu tan vỡ gom lên chữ/ tôi thừa” – (thừa).

Cô thấy mình về với quê cha đất tổ, với mạ non sông bãi, bỏ lại xác xơ lều chợ và bỏ cả những lương duyên lỡ lầm con gái như lúa chưa nõn xuân thì lại nhọc nhằn chát mặn đời nhau: “như đôi bồ câu cuộn nhau trên gối/ như màu váy tôi liệm cuộc tình hấp hối// làm vợ/ làm dâu/ lãi tiếng thở dài”.

Mật mã là tập thơ tận tụy hướng nội. Những bài thơ cứ tuôn trào theo cảm xúc, mà chính tác giả cũng không kìm nén được, những câu dài ngắn không theo quy luật, như nước mắt bung vỡ, đan xen vào nhau không cách nào rứt ra, các bài, câu thơ là một dòng chảy, tự nhiên găm vào lòng tôi khi đọc… Tôi cũng tự hỏi mình ta sẽ bấu víu vào đâu khi xung quanh là mênh mông, bề bộn? – Về, may thay ta còn một nơi để trú ngụ trong cơn khủng hoảng lòng mình, như Lê Nhi bộc bạch: “mấy mươi năm làm thằng hùng hổ// cõng tôi tạ tội trước làng”. Có lẽ, điều đó cũng làm cô vươn dậy sau những u buồn dằng dặc, vô chừng. Và tên tập thơ là Mật mã, điều này nói lên một khát khao mãnh liệt cần được sẻ chia, thấu hiểu.

Tuy nhiên, khi ta đã đặt mạch nguồn 35 bài thơ của tập này vào bước đi trong lòng tác giả, chúng ta đều hiểu rằng: Ở một khoảng nào đó quá lâu, người ta sẽ quên bẵng đi ngoài kia những tia nắng sớm còn đang ấm. Và hướng đi của thơ cũng ít có ngoại lệ. Khi Lê Nhi ươm hồn mình, đắp lên những ý niệm trong tâm thức và mải mê khai hoang nó, tôi sợ, cô có thể bỏ lỡ thứ gì đó tươi đẹp ngoài sân. Như nỗi sợ của người viết là giẫm lại bước chân mình, và sáng tạo luôn là những cuộc đào thoát xưa nay!

Đến đây thì thật lòng tôi muốn cô bay, như chúng ta thơ bé, ai cũng từng có một cánh diều đứt dây. Nên hãy cứ như loài bồ công anh trước gió, cảm xúc thì không cần phải xếp hàng, hãy bay, hãy viết bất cứ gì cô muốn, để cho những hạt bồ công anh hồn nhiên nảy mầm!

Sài Gòn, tháng 6/2022

K.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm