TIN TỨC

‘Mật mã’ Lê Nhi: Mang chợ vào thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-15 10:42:34
mail facebook google pos stwis
1994 lượt xem

Khét

 Tôi bắt gặp Lê Nhi từ những bài thơ đăng trên trang web của Hội Nhà văn Việt Nam, sẽ không có gì đáng nhớ hay đáng nhắc đến nếu những bài thơ đó không có gì đặc sắc thì hẳn sẽ “quên ngay sau khi đọc”, thơ Lê Nhi đã cho tôi một khía cạnh mới là: Chợ.

Có người từng nói rằng: Thơ Việt ta nhìn đâu cũng thấy ruộng đồng, quê hương. Điều này đã làm tôi băn khoăn, vì quả thật như thế. Đôi lúc tôi cũng chán chê những vần thơ quanh quẩn ruộng lúa sau nhà, chái bếp, vì thật ra cuộc sống ta đâu chỉ có một màu như thế, nhưng để mang chợ vào thơ là điều không dễ dàng, đơn giản vì nó thô, ít thơ. Với Lê Nhi thì khác, có lẽ cô là một mảnh ghép của thơ mà ta đang thiếu, như cô từng định nghĩa mình theo cách rất thật thà nhưng cũng rất chợ:

tôi biết lừa lọc

tôi biết hờn dỗi

tôi biết nói điêu

buộc vào tôi

kẻ chợ!

(linh hồn)

Và hiển nhiên, tập thơ Mật mã này cũng đầy màu sắc, màu sắc phơi bày theo con chữ, những quần, những áo bày la liệt trên các gian hàng đợi người ghé qua cân, đo, đong, đếm. Ai bảo đồ vật vô tri vô giác khi những mưa nắng ngột ngạt trên mái tôn, rì rầm nơi góc phố? “nóc chợ đang nói chuyện với tôi/ về khuôn đời mang hình hài diêm dúa// một đôi giày lỗi mốt// tôi thấy tôi mọc dưới vệt đường// cõng những phom hiện đại đính cườm xanh đỏ” (chạm chân người)


Bìa tập thơ “Mật mã” của Lê Nhi.

Thơ Lê Nhi gá mình cho phố. Những tưởng nơi ồn ào đấy sẽ che lấp được sự lẻ loi, nhưng không, cảm thức cô đơn lại càng xâm chiếm, nó ăn mòn dần tâm hồn cô, càng nhộp nhịp đông vui lại càng hoang lạnh. Lật từng trang Mật mã, tôi lại càng nghĩ đến một con người cô độc lọt thỏm giữa chợ. Ở đấy, tất cả đều có thể ngã giá, đổi chát, nhưng ta lấy gì để đổi một linh hồn? – Hẳn nhiên không ai bán, cũng chẳng ai cần mua, và hơn nữa, ít ai muốn khơi gợi đến nó. Tất cả đều thúc giục sự le lói trong tâm thức cô bật thành tiếng kêu, tiếng kêu ấy thảng thốt giữa chợ mà không một ai nghe:

khi không nổi loạn đươc

đêm giãy giụa dưới đáy ly không thốt lên lời

sao chiếc son môi còn hân hoan dưới  kệ

sao chiếc váy hai dây mỏng manh cấu cào

 

tôi với tay xé nát mình trong chiếc gương trần tục

cái bóng cười khanh khách vào mặt tôi

(đi vào chiếc gương)

Tự thấu mình là thế, như làm sao để thoát ra, khi chúng ta, ai cũng ít nhất một lần bị “cầm tù” mà không hay biết! – Giải thoát là điều cần kíp, cũng như những người làm thơ, đôi lần chối bỏ mình, phân tách mình ra, ngồi đối diện với nó, chất vấn nó, phân trần nó, van nài nó,… để được sống! Cô ấy cũng không ngoại lệ: “thành phố không em nữa/ mùa vỡ oà/ ngác ngơ/ ôm bao nhiêu tan vỡ gom lên chữ/ tôi thừa” – (thừa).

Cô thấy mình về với quê cha đất tổ, với mạ non sông bãi, bỏ lại xác xơ lều chợ và bỏ cả những lương duyên lỡ lầm con gái như lúa chưa nõn xuân thì lại nhọc nhằn chát mặn đời nhau: “như đôi bồ câu cuộn nhau trên gối/ như màu váy tôi liệm cuộc tình hấp hối// làm vợ/ làm dâu/ lãi tiếng thở dài”.

Mật mã là tập thơ tận tụy hướng nội. Những bài thơ cứ tuôn trào theo cảm xúc, mà chính tác giả cũng không kìm nén được, những câu dài ngắn không theo quy luật, như nước mắt bung vỡ, đan xen vào nhau không cách nào rứt ra, các bài, câu thơ là một dòng chảy, tự nhiên găm vào lòng tôi khi đọc… Tôi cũng tự hỏi mình ta sẽ bấu víu vào đâu khi xung quanh là mênh mông, bề bộn? – Về, may thay ta còn một nơi để trú ngụ trong cơn khủng hoảng lòng mình, như Lê Nhi bộc bạch: “mấy mươi năm làm thằng hùng hổ// cõng tôi tạ tội trước làng”. Có lẽ, điều đó cũng làm cô vươn dậy sau những u buồn dằng dặc, vô chừng. Và tên tập thơ là Mật mã, điều này nói lên một khát khao mãnh liệt cần được sẻ chia, thấu hiểu.

Tuy nhiên, khi ta đã đặt mạch nguồn 35 bài thơ của tập này vào bước đi trong lòng tác giả, chúng ta đều hiểu rằng: Ở một khoảng nào đó quá lâu, người ta sẽ quên bẵng đi ngoài kia những tia nắng sớm còn đang ấm. Và hướng đi của thơ cũng ít có ngoại lệ. Khi Lê Nhi ươm hồn mình, đắp lên những ý niệm trong tâm thức và mải mê khai hoang nó, tôi sợ, cô có thể bỏ lỡ thứ gì đó tươi đẹp ngoài sân. Như nỗi sợ của người viết là giẫm lại bước chân mình, và sáng tạo luôn là những cuộc đào thoát xưa nay!

Đến đây thì thật lòng tôi muốn cô bay, như chúng ta thơ bé, ai cũng từng có một cánh diều đứt dây. Nên hãy cứ như loài bồ công anh trước gió, cảm xúc thì không cần phải xếp hàng, hãy bay, hãy viết bất cứ gì cô muốn, để cho những hạt bồ công anh hồn nhiên nảy mầm!

Sài Gòn, tháng 6/2022

K.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm