TIN TỨC

Xuân về, đọc thơ Trương Nam Hương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-28 08:06:42
mail facebook google pos stwis
1743 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Cảm nhận tập thơ “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương)

Chủ thể trữ tình trong “Thời nắng xanh” xuất hiện là một người con với tấm lòng thương thảo, mộc mạc, đơn sơ gắn liền với nỗi bồn chồn thầm lặng. Nhàu nhĩ màu thời gian ăn ngấm trong tâm thức những mùa qua…

Nhưng sau tất cả, đấy vẫn là “nỗi buồn mong manh” mang “Ánh mắt mùa xuân/ Dịu dàng” đủ vững vàng để làm điểm tựa tâm hồn cho những người con của thời đại hôm nay. Điều này khác với cái buồn nẫu rục thế sự, đậm dày đạo lý, hay tiếng thở dài bi thảm của những hồn thơ đã từng cất vang. Cảm thức buồn thương ấy như là một cách khái quát về cuộc đời và thân phận con người từ ánh nhìn đong đưa, giao cảm nơi một cá thể giàu lòng trắc ẩn.


Tác giả Tuấn Trần và nhà thơ Trương Nam Hương.

“Từ thuở ấy”, tác giả đã mở ra không khí thơ “Buổi sớm mát lành trong trẻo lạ/ Sau đêm, mầm nõn bỗng xanh òa/ Cây ở ân tình thơm thảo quá/ Thanh lọc lòng ta những cánh hoa”.  Nhưng nội hàm của “thưở ấy” để có được sự “thanh trong” lặng thầm nơi hồn cốt trữ tình là tháng năm qua đi, tình đời, tình người bùi ngùi dư ảnh: “Mẹ ra ngoài cõi vô thường/ Rưng rưng con thắp nỗi buồn vào thơ”. Đã biết bao tha thiết, nồng hậu, đẹp lành lẫn khổ đau, thương tổn và cả nhầm nhỡ. Bao nếm trải ngậm ngùi, xót tiếc về “Bốn mùa thao thức tuổi rêu phong”… Nhưng sau tất cả, là nhẹ nâng thức, cảm tạ tháng ngày thứ tha bao dung đã không làm rụi tàn những “cũ kĩ” thân thương: “Chưa ngõ lời yêu/ Nghe nhành đã biếc/ Em nồng nắng Hạ/ Lại đằm mưa Thu”.

Con người đã từng trong nhau đó mà khi khuất bóng sao xa vời đến thế: “Con biết tìm đâu giữa chơi vơi”… Suy cho cùng, không thể chống lại được phai tàn, nào ai đua được với thời gian nên đành khép nép “…nhận mình nhỏ bé - Thản nhiên xanh”. Chỉ có thể run ngân những nhịp đàn lòng thổn thức để nán lại bên nhau trong đôi tiếng “ầu ơ…ngồi dỗ nỗi buồn bờ xa”. Còn ai đó ngồi lại bên ta, cho ta một quãng an/ yên giữa nhịp đời ngược xuôi cũng là hạnh phúc quá đỗi lớn lao: “Ngắm những bông hoa em cắm/ Dịu dàng năm ngón thơm ngây”. Tiếng thơ như nâng giấc, đỡ đần, dìu dựa. Đâu đó có một chú chim nhỏ nơi bờ cỏ dày nguyên sinh, nem nép dịu dàng, gặp dịp tương ngộ cất lời líu lo… Cây đời tỏa bóng “biếc xanh” ôm ấp những dấu chân xưa! Và neo lại “Bóng làng xa” trong nhịp nhàng tiếng ca.

Đến sau “nỗi buồn khôi nguyên” là một thế giới cho sự bền bỉ niềm tin tưởng vươn với tới cái đẹp và những giá trị tinh thần lưu cửu, xanh tươi: Ta soi vào ta/ Gặp dòng nước mắt/ Mỗi sáng em cười/ Níu ta khỏi lạc”. Chúng hiện diện như “Một gò trăng viên mãn giữa tay anh”. Đồng thời như một “Tiếng chim mượn lá để tu từ” trong thẳm sâu tâm hồn thi sĩ. Điều này tạo nên dáng nét trong xanh vời vợi nơi chân dung linh hồn vốn yên ắng, thuần lành của tác giả: “Mây ngơ ngóng dưới vòm trời cổ tích/ Dưới vòm trời tóc ngoại - một bà tiên”

Với một tấm lòng thật sự đôn hậu, thao thiết yêu đời, cho nên ngay cả trong nỗi buồn, trong ưu tư, dằn vặt nhà thơ luôn biết nâng niu, thưởng thức những “kí ức vùi thơm…”. Đó là bờ môi “hớn hở”, “Sài Gòn bất chợt tinh khôi”, là “Anh mượn màu nắng Huế để thương em”.... Anh đặc biệt tin vào cái vĩnh cửu của lẽ giản đơn trong đời thường “Bếp mẹ mùa đông trấu tro vẫn đượm/ Vênh đáy thớt kê đít nồi khói rớm”. Những niềm vui vun vém kín đáo, thanh cao, dịu ngọt “Lật từng mùa thổn thức/ Trong veo tên em/ Gương mặt ấy/ Sáng lên hi vọng”. Tận hưởng cái đẹp nồng thắm và giản dị đó chính là “niềm hân hưởng thuần khiết” của một trái tim mê đắm như “…bát canh ngọt mát/ Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình”. Chính cảm quan ấy đã biến thực tế đời sống “Thấp hèn – cao thượng giao tranh”, trở nên “lấp lánh sự sống”. Không hề tách rời muôn nỗi “Nghe mùa trở gió hoang mang” nhưng đồng thời trong đẹp hơn, dịu dàng hơn, nên thơ hơn, và ngàn lần cao cả hơn. Tất cả được “gạn đục lóng trong” qua một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và khiêm nhường: “Phải em cùng cơn mưa ấy/ Lạc mùa vừa ướt qua tôi”.

Với Trương Nam Hương làm thơ là để lắng nghe sự sống của từ, gọi về những giấc mơ tinh thần đẹp đẽ. Lý tưởng được đắp bồi từ những “Bóng quê”; “ban mai”; “Chuyện công viên” “câu hát cũ”… Ngay những giây phút trống trải nhất trong lòng, với anh, tiếng việt và con người nơi đây mang chung một “yếu nghĩa” thực sự thiêng liêng: “Tiếng vững bền như núi/ Dọc thời gian đắp bồi/ Tiếng việt ơi tiếng việt/ Lớn lên từ cánh nôi”; “Đảo thiêng - đất thấm linh hồn/ Lá cây ngọn cỏ mãi còn biếc xanh/ Thơ xin thắp nén tâm lành/ Khấn mong hương khói ru lành nỗi đau”;

Cũng với chính tác giả ý thức quan niệm của con người còn là một triết lý sống thực hơn hết.  Đó là lối sống không xa đời, không trách cứ, hờn hận, gần với người, hòa vào thiên nhiên, vui với kỉ niệm, yên với niềm tin và hi vọng, bằng lòng với những “nhỏ nhoi”,... những “lối nhỏ ngập ngừng yêu thương”, để tích hợp diệu nghĩa, để biểu đạt lương duyên: “Tứ như vốc hạt tình gieo xuống/ Mảnh đất hồn ta chữ lặng chờ/ Ngày như giấy trắng, đêm như mực/ Ngọn bút khơi mầm những luống thơ.”

Tập thơ này là một thế giới “Mùa xưa”, trong đó, “Giấc mơ trưa” là sợi tơ, nối kết với các ảnh tượng kí ức khác thành một khối thống nhất gọi tên “Thời nắng xanh”. Lắng nghe chăm chú tiếng nói bên trong, dựa vào sự tinh tế nơi mỹ cảm, nhà thơ bình tĩnh chuyển tải tất cả những trạng thái đời sống đã qua thành những hoài mộng trữ tình, những sắc tính tâm linh đầy mơ mộng mà sâu sắc: “Anh bắt gặp vòm thông em trẻ lại/ Suối sông thấm đẫm mưa hè”. Và hệ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trở thành thủ pháp nghệ thuật xuyên suốt làm nên tiếng nói nội cảm thầm thỉ, rầm rì, bất tận…Làm nên cái rộng sâu miên viễn, nâng tầm giá trị của tiếng ta. Đó là một sự đối thoại không ngừng của người đàn ông với số phận của mình, niềm tin của mình, nỗi hoài vọng của đời mình. Những “Giấc mơ trưa” về một thời ấy đã đánh thức con người biết thực hành yêu thương, trân trọng từng khoảnh khắc cuộc sống như “Nắng mưa thấm tiếng oa oa đầu đời”.

Bước tới hiện đại từ “Thời nắng xanh”, ta đã nhận diện ra gương mặt thơ của Trương Nam Hương trong bức tranh đời sống hôm nay – tính can dự để làm điểm tựa tinh thần cho một thế hệ thêm tươi trẻ. Rồi ai cũng sẽ thấy mình đôi lúc “Hình như gió/ Ngược tìm năm tháng ấy/ Hát rông dài hoa bất tử ơi”. Ai mạnh mẽ, ai ưu uất tới nhường nào cũng cần được trốn vùi ít nhất một lần “Trong im lặng biếc xanh của cỏ”

Phải chăng, ở sâu thẳm của bất an lẫn tĩnh tại, thanh âm là thứ ta bắt nhạy nhất “Lăng mà im - Động mà im”; “Nghe hư vô cả trăm năm kiếp người”. “Thời nắng xanh” rỏ rỉ ước mơ thật thấm thía, bao dung… Giữa tinh thần sáng tạo nhẹ nhàng, thấm lắng và những thi cảm mang cảm thức nặng sâu ân nghĩa cùng thi liệu là chính những thăng giáng của sự đời chung – riêng nơi người thơ, mà cụ thể là những điều từng tồn tại đẹp đẽ của thời xa vắng. Ấy chính là nét độc đáo tạo nên phong cách thơ của tác giả. Tất nhiên, hướng về quá khứ đã ngủ yên không có nghĩa chỉ truyền thừa những giá trị đã đóng khung trong địa hạt văn học, nghệ thuật. Thực chất, đó cũng là một quá trình sáng tạo liên tục, nằm trong dòng vận động kiếm tìm cái mới của người nghệ sĩ nhằm nhìn thấy hoặc khơi mạch nguồn giá trị thẩm mỹ cho luôn luôn tiếp diễn. Vừa mang hơi thở nguồn cội vừa mang tính thời đại. Và gia đình, hương thôn, miền cổ tích, áo trắng một thời, lối cỏ xanh… nơi thời/ không nghệ thuật giống như chốn cư ngụ nương náu bình yên – thánh địa cuối cùng của nhân cách được chuyển thể thành thơ trong “Thời nắng xanh”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm