TIN TỨC

Ý kiến bạn đọc: Rành mạch

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-03-13 07:47:19
mail facebook google pos stwis
3469 lượt xem

Ý KIẾN BẠN ĐỌC
(Về truyện ngắn Di cảo của cha - Nguyễn Trường)

LÊ THANH HUỆ

Mũi tên thời gian

Cho đến nay, chưa có công cụ nào hỗ trợ để loài người thoát ra được cách nhìn thời gian vận hành từ quá khứ đến hiện tại và sẽ xuôi về tương lai (gọi là mũi tên thời gian) với tốc độ hiện có của hệ quy chiếu trái đất. Chỉ có các nhà văn sử dụng thủ pháp xoay chiều mũi tên thời gian và vận tốc của nó trong các tác phẩm văn học.

Truyện ngắn “Di cảo của cha” (Báo Văn nghệ số 4+5+6 - Tết Nhâm Dần) nhà văn Nguyễn Trường tuân thủ nguyên tắc mũi tên thời gian, nhưng dùng thủ pháp lồng ghép tác phẩm trong tác phẩm với không gian: cuộc hành trình của người cha cách đây hơn 30 năm từ làng quê đến bản Giàng, mang con chữ về cho người Thái, người Mường ở các bản: Giàng, Mê, Trận.

Cuộc hành trình thứ hai, của người con (cũng là nhà văn) sau khi người cha mất và cũng cùng không gian đó với đích đến là bản Giàng để thẩm tra lại bút ký Lên vùng cao” của người cha (nhà văn có phong cách viết mang đậm chất dân dã) với di nguyện xóa bỏ “…đốt đi”.

Bút ký Lên vùng cao” được người cha viết vào cuối đời và mang đậm mầu sắc hồi ký, gần với tự truyện. Bút ký ghi lại hành trình của người cha, cùng đoàn đi bộ giữa núi đồi hùng vĩ và hoang sơ, mất 2 ngày, từ phòng giáo dục huyện biên thùy Lang Chánh mới lên đến xã Yên Khương.

Được đi xe khách, hành trình của người con chưa đầy ngày, nhờ bút ký nên cảm nhận được “con người chặt rừng, mở phố, đuổi rừng già vào tận những dãy núi cao xa xa kia”. Không còn thấy núi rừng hùng vĩ, hoang sơ, mưa nguồn, gió núi lung linh như trong bút ký của người cha …

Từ Yên Khương lên bản Giàng, thầy giáo chạy bộ một mình theo lối mòn quanh co, vượt núi đồi mông muội, để tránh ngủ đêm giữa rừng nguyên thủy, không bị hổ báo xé xác. Trong cơn sốt rét rừng, giữa đêm đen, thầy giáo phải bỏ lối mòn, chạy tuông qua các bụi gai để đến ánh lửa hồng tỏa ra trong một căn nhà đơn độc cheo leo trên sườn núi, tá túc qua đêm.

Đến bản Giàng, không biết tiếng Thái, thầy chật vật mở lớp dạy cái chữ đồng thời với việc tự học tiếng Thái, cùng làm rẩy, lên nương với dân bản và được dân bản cáp đôi với cô Tỵ “người đẹp rực rỡ nhất bản mới xứng với thầy giáo người Kinh”.

Đây chính là nút thắt buộc người con phải bám theo hành trình người cha để xác minh lại mối tình và nếu có, tìm lại anh em ruột thịt cùng cha khác mẹ, cũng là khẳng định lý do cha mình có di nguyện xóa bỏ bút ký lung linh được ông cụ viết bằng tất cả tâm huyết, trí tuệ vào lúc chạng vạng cuộc đời.

Người con và bạn mình đi mất một ngày bằng xe máy phân khối lớn cài số nhỏ từ từ bò lên theo đường trôn ốc. Nhiều đoạn đường cao thăm thẳm, quanh co, gấp khúc, xe cứ gầm rú, tung bụi mù mịt bò từng thước một”.

Hai hành trình cách nhau hơn 30 năm đã đến cùng bản Giàng, không chỉ là địa điểm mà khung cảnh được kéo gần lại với nhau: cảnh vật, hạ tầng (đường sá, nhà cửa, sản xuất) lạc hậu, khó khăn, gần giống như đoạn đầu của bút ký, khi thầy giáo lên mở chữ, cứ như do tốc độ khác nhau, thời gian đã chập lại ở nơi đây…

Người con trút được gánh nặng do nhận ra cô Tỵ trở thành bà Tỵ, vẫn còn vương nét đẹp tuổi xuân thì nhưng không có chuyện yêu thầy giáo vùng xuôi như bản làng cáp đôi, so đũa.

Nhưng gặp phải một vấn đề lớn hơn sức tưởng tượng: Bản Giàng trong bút ký của người cha hiện tại đã phát triển huy hoàng có mức sống cao với rừng quế do anh May trồng để khai thác, “trang trại nuôi bò thịt của cô Tỵ” bản làng có điện lưới, đời sống, rất cao.

Là nhà văn, người con có thể đổi bút ký Lên vùng cao” thành thể loại Truyện ngắn, sẽ thành tác phẩm ngợi ca thành quả do con chữ mang lại cho bản Giàng. Nhưng như vậy, lại rơi vào ngộ nhận “cái chữ” sẽ làm nên chuyện phi thường, không cần thời gian, mồ hôi, thất bại, gian khổ để đổi đời…

Thời gian thực

Con tàu du hành trong không thời gian (không gian và cả thời gian) sẽ đi qua những vùng có vận tốc thời gian nhanh hoặc chậm hơn thời gian của trái đất do đó cần tính toán, hiệu chỉnh thờ gian trên con tàu về thời gian của trái đất gọi là thời gian thực, để điều hành.

Nếu chọn thời gian hiện tại là điểm khởi hành, thời gian nơi đến là tương lai gọi là du hành không gian. Nếu điểm đi và đến trùng nhau trong quảng thời gian rất dài, ta sẽ du hành về quá khứ  hoặc đến tương lai của cùng vị trí, gọi là du hành thời gian. Tác giả Nguyễn Trường kết hợp cả hai loại hành trình gọi là không thời gian (di chuyển trong cùng không gian và cả trong chiều thời gian).

Có vẻ do quỹ thời gian có hạn nên người cha chọn thời gian cho điểm đến là bản Giàng thời tương lai xa, lúc đã đuổi kịp mức độ phát triển của miền xuôi.

Người con không thể tính toán, hiệu chỉnh về thời gian thực nên mọi chuyện trở nên rắc rối.

“…Trên kệ có nhiều sách Anh văn ...và ngoài nước gáy dày cộp”. Giá sách là biểu trưng cho một phần nhỏ kiến thức, nhưng chưa đủ để tạo ra công thức hiệu chỉnh thời gian người cha về thời gian thực của người con. Và do thiếu kiến thức để hiệu chỉnh thời gian nên cả cha và con đều có những hành động khác nhau để cùng làm nên chủ đề của truyện ngắn:

Đoạn tuyệt với trang viết lãng mạn, lạc quan phi thực tế:

Việc nhà văn già di nguyện đốt bản thảo bút ký Lên vùng cao là thái độ dứt khoát đoạn tuyệt với cách viết này lúc lâm chung.

“Tác phẩm viết với chủ nghĩa lạc quan thời cha đã sống và cống hiến, rất hợp với thể chế, sẽ dễ được các báo in ấn chăng?”. Đó là câu hỏi, cũng là lý giải của người con để độc giả phần nào thấy được khó khăn của thế hệ cha ông cầm bút. Thực tế cách mạng lúc đó đòi hỏi những tác phẩm lạc quan, cách mạng để động viên quần chúng ra trận và nó thực sự có ích, nhưng kéo dài qua thời bình, xây dựng đất nước, sẽ phản tác dụng.

Rành mạch

“Tóm lại, Trở lên vùng cao của cha chỉ có nửa sự thật ở phần hồi ức, còn phần hiện tại trở lại cảnh cũ người xưa là sản phẩm tưởng tượng. Có lẽ thành ý của cha tôi mơ ước vùng cao đổi mới, người người tiến bộ, nhà nhà giàu có mà viết như trên”.

“Ngay cả phần không thực cũng đã hé lộ nhiều điều có thực, vì con đã thấy giá sách trên nhà bà Tỵ. Một thế hệ người dân tộc có học vấn đang lớn lên, phải chăng là nhân quả từ lớp thầy giáo đầu tiên đem cái chữ lên với người dân bản”.

Đánh giá của người con cho thấy sự thẩm định mang tính kế thừa. Khẳng định lại: thế hệ những nhà văn theo chủ nghĩa lạc quan là những người tâm huyết với non sông, đời sau vẫn tìm được phần giá trị để tận dụng và phát huy. 

Thực hiện di huấn

Truyền thống người Việt: thực hiện di huấn hoặc không thực hiện nếu di huấn sai.

“Con sẽ biên tập lại và tìm cách in để mọi người hiểu tại sao, bằng cách gì con chữ lên được vùng cao, tạo ra sự thay đổi đến tận gốc rễ tư duy của bà con dân bản”.

Với nguyên tắc đúng: “phải tìm ra sự thật mới được vinh danh”.

Đó chính là chủ đề của truyện ngắn (mang sắc màu lung linh của miền biên thùy đang tàn tạ, phôi phai vì sự tăng trưởng đơn thuần mà không gắn liền với phát triển bền vững) mà tác giả gửi gắm đến độc giả:

Hãy tạm gác lại tình cảm với tiền nhân mà mình yêu thương kính trọng để dùng suy nghĩ rành mạch, xét lại, tìm ra sự thật, thấy rõ đúng sai; từ đó mới có cơ sở gạn đục, khơi trong trước lúc vinh danh; khiến cho sự tôn thờ trở nên đúng đắn và được đời sau chấp nhận.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm