TIN TỨC

Ý kiến bạn đọc: Rành mạch

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-07-07 13:13:07
mail facebook google pos stwis
2749 lượt xem

Ý KIẾN BẠN ĐỌC
(Về truyện ngắn Di cảo của cha - Nguyễn Trường)

LÊ THANH HUỆ

Mũi tên thời gian

Cho đến nay, chưa có công cụ nào hỗ trợ để loài người thoát ra được cách nhìn thời gian vận hành từ quá khứ đến hiện tại và sẽ xuôi về tương lai (gọi là mũi tên thời gian) với tốc độ hiện có của hệ quy chiếu trái đất. Chỉ có các nhà văn sử dụng thủ pháp xoay chiều mũi tên thời gian và vận tốc của nó trong các tác phẩm văn học.

Truyện ngắn “Di cảo của cha” (Báo Văn nghệ số 4+5+6 - Tết Nhâm Dần) nhà văn Nguyễn Trường tuân thủ nguyên tắc mũi tên thời gian, nhưng dùng thủ pháp lồng ghép tác phẩm trong tác phẩm với không gian: cuộc hành trình của người cha cách đây hơn 30 năm từ làng quê đến bản Giàng, mang con chữ về cho người Thái, người Mường ở các bản: Giàng, Mê, Trận.

Cuộc hành trình thứ hai, của người con (cũng là nhà văn) sau khi người cha mất và cũng cùng không gian đó với đích đến là bản Giàng để thẩm tra lại bút ký Lên vùng cao” của người cha (nhà văn có phong cách viết mang đậm chất dân dã) với di nguyện xóa bỏ “…đốt đi”.

Bút ký Lên vùng cao” được người cha viết vào cuối đời và mang đậm mầu sắc hồi ký, gần với tự truyện. Bút ký ghi lại hành trình của người cha, cùng đoàn đi bộ giữa núi đồi hùng vĩ và hoang sơ, mất 2 ngày, từ phòng giáo dục huyện biên thùy Lang Chánh mới lên đến xã Yên Khương.

Được đi xe khách, hành trình của người con chưa đầy ngày, nhờ bút ký nên cảm nhận được “con người chặt rừng, mở phố, đuổi rừng già vào tận những dãy núi cao xa xa kia”. Không còn thấy núi rừng hùng vĩ, hoang sơ, mưa nguồn, gió núi lung linh như trong bút ký của người cha …

Từ Yên Khương lên bản Giàng, thầy giáo chạy bộ một mình theo lối mòn quanh co, vượt núi đồi mông muội, để tránh ngủ đêm giữa rừng nguyên thủy, không bị hổ báo xé xác. Trong cơn sốt rét rừng, giữa đêm đen, thầy giáo phải bỏ lối mòn, chạy tuông qua các bụi gai để đến ánh lửa hồng tỏa ra trong một căn nhà đơn độc cheo leo trên sườn núi, tá túc qua đêm.

Đến bản Giàng, không biết tiếng Thái, thầy chật vật mở lớp dạy cái chữ đồng thời với việc tự học tiếng Thái, cùng làm rẩy, lên nương với dân bản và được dân bản cáp đôi với cô Tỵ “người đẹp rực rỡ nhất bản mới xứng với thầy giáo người Kinh”.

Đây chính là nút thắt buộc người con phải bám theo hành trình người cha để xác minh lại mối tình và nếu có, tìm lại anh em ruột thịt cùng cha khác mẹ, cũng là khẳng định lý do cha mình có di nguyện xóa bỏ bút ký lung linh được ông cụ viết bằng tất cả tâm huyết, trí tuệ vào lúc chạng vạng cuộc đời.

Người con và bạn mình đi mất một ngày bằng xe máy phân khối lớn cài số nhỏ từ từ bò lên theo đường trôn ốc. Nhiều đoạn đường cao thăm thẳm, quanh co, gấp khúc, xe cứ gầm rú, tung bụi mù mịt bò từng thước một”.

Hai hành trình cách nhau hơn 30 năm đã đến cùng bản Giàng, không chỉ là địa điểm mà khung cảnh được kéo gần lại với nhau: cảnh vật, hạ tầng (đường sá, nhà cửa, sản xuất) lạc hậu, khó khăn, gần giống như đoạn đầu của bút ký, khi thầy giáo lên mở chữ, cứ như do tốc độ khác nhau, thời gian đã chập lại ở nơi đây…

Người con trút được gánh nặng do nhận ra cô Tỵ trở thành bà Tỵ, vẫn còn vương nét đẹp tuổi xuân thì nhưng không có chuyện yêu thầy giáo vùng xuôi như bản làng cáp đôi, so đũa.

Nhưng gặp phải một vấn đề lớn hơn sức tưởng tượng: Bản Giàng trong bút ký của người cha hiện tại đã phát triển huy hoàng có mức sống cao với rừng quế do anh May trồng để khai thác, “trang trại nuôi bò thịt của cô Tỵ” bản làng có điện lưới, đời sống, rất cao.

Là nhà văn, người con có thể đổi bút ký Lên vùng cao” thành thể loại Truyện ngắn, sẽ thành tác phẩm ngợi ca thành quả do con chữ mang lại cho bản Giàng. Nhưng như vậy, lại rơi vào ngộ nhận “cái chữ” sẽ làm nên chuyện phi thường, không cần thời gian, mồ hôi, thất bại, gian khổ để đổi đời…

Thời gian thực

Con tàu du hành trong không thời gian (không gian và cả thời gian) sẽ đi qua những vùng có vận tốc thời gian nhanh hoặc chậm hơn thời gian của trái đất do đó cần tính toán, hiệu chỉnh thờ gian trên con tàu về thời gian của trái đất gọi là thời gian thực, để điều hành.

Nếu chọn thời gian hiện tại là điểm khởi hành, thời gian nơi đến là tương lai gọi là du hành không gian. Nếu điểm đi và đến trùng nhau trong quảng thời gian rất dài, ta sẽ du hành về quá khứ  hoặc đến tương lai của cùng vị trí, gọi là du hành thời gian. Tác giả Nguyễn Trường kết hợp cả hai loại hành trình gọi là không thời gian (di chuyển trong cùng không gian và cả trong chiều thời gian).

Có vẻ do quỹ thời gian có hạn nên người cha chọn thời gian cho điểm đến là bản Giàng thời tương lai xa, lúc đã đuổi kịp mức độ phát triển của miền xuôi.

Người con không thể tính toán, hiệu chỉnh về thời gian thực nên mọi chuyện trở nên rắc rối.

“…Trên kệ có nhiều sách Anh văn ...và ngoài nước gáy dày cộp”. Giá sách là biểu trưng cho một phần nhỏ kiến thức, nhưng chưa đủ để tạo ra công thức hiệu chỉnh thời gian người cha về thời gian thực của người con. Và do thiếu kiến thức để hiệu chỉnh thời gian nên cả cha và con đều có những hành động khác nhau để cùng làm nên chủ đề của truyện ngắn:

Đoạn tuyệt với trang viết lãng mạn, lạc quan phi thực tế:

Việc nhà văn già di nguyện đốt bản thảo bút ký Lên vùng cao là thái độ dứt khoát đoạn tuyệt với cách viết này lúc lâm chung.

“Tác phẩm viết với chủ nghĩa lạc quan thời cha đã sống và cống hiến, rất hợp với thể chế, sẽ dễ được các báo in ấn chăng?”. Đó là câu hỏi, cũng là lý giải của người con để độc giả phần nào thấy được khó khăn của thế hệ cha ông cầm bút. Thực tế cách mạng lúc đó đòi hỏi những tác phẩm lạc quan, cách mạng để động viên quần chúng ra trận và nó thực sự có ích, nhưng kéo dài qua thời bình, xây dựng đất nước, sẽ phản tác dụng.

Rành mạch

“Tóm lại, Trở lên vùng cao của cha chỉ có nửa sự thật ở phần hồi ức, còn phần hiện tại trở lại cảnh cũ người xưa là sản phẩm tưởng tượng. Có lẽ thành ý của cha tôi mơ ước vùng cao đổi mới, người người tiến bộ, nhà nhà giàu có mà viết như trên”.

“Ngay cả phần không thực cũng đã hé lộ nhiều điều có thực, vì con đã thấy giá sách trên nhà bà Tỵ. Một thế hệ người dân tộc có học vấn đang lớn lên, phải chăng là nhân quả từ lớp thầy giáo đầu tiên đem cái chữ lên với người dân bản”.

Đánh giá của người con cho thấy sự thẩm định mang tính kế thừa. Khẳng định lại: thế hệ những nhà văn theo chủ nghĩa lạc quan là những người tâm huyết với non sông, đời sau vẫn tìm được phần giá trị để tận dụng và phát huy. 

Thực hiện di huấn

Truyền thống người Việt: thực hiện di huấn hoặc không thực hiện nếu di huấn sai.

“Con sẽ biên tập lại và tìm cách in để mọi người hiểu tại sao, bằng cách gì con chữ lên được vùng cao, tạo ra sự thay đổi đến tận gốc rễ tư duy của bà con dân bản”.

Với nguyên tắc đúng: “phải tìm ra sự thật mới được vinh danh”.

Đó chính là chủ đề của truyện ngắn (mang sắc màu lung linh của miền biên thùy đang tàn tạ, phôi phai vì sự tăng trưởng đơn thuần mà không gắn liền với phát triển bền vững) mà tác giả gửi gắm đến độc giả:

Hãy tạm gác lại tình cảm với tiền nhân mà mình yêu thương kính trọng để dùng suy nghĩ rành mạch, xét lại, tìm ra sự thật, thấy rõ đúng sai; từ đó mới có cơ sở gạn đục, khơi trong trước lúc vinh danh; khiến cho sự tôn thờ trở nên đúng đắn và được đời sau chấp nhận.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Bồi hồi, thổn thức, bâng khuâng…
Bài viết cảm nhận của nhà thơ Hoa Ngọc Dung
Xem thêm
Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay
Lý luận văn học Lý luận văn học (LLVH) là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học. Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học; nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh THPT thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của LLVH là vô cùng lớn.
Xem thêm