TIN TỨC

Hồ Xuân Hương, nhà thơ Việt Nam đầu tiên viết về LGBT

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
5893 lượt xem

Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ có tiếng là làm thơ táo bạo. Với hình thức gần với câu đố dân gian “đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục”, không ít bài thơ của nàng có thấp thoáng hình ảnh thân thể người nữ, hoặc đặc tả khéo léo, ỡm ờ về “cái cội nguồn sự sống”: Cái quạtGiếng nướcHỏi trăngĐèo Ba DộiKẽm TrốngHang Thánh hóa chùa ThầyĐộng Hương Tích


Bìa sách “Giai nhân di mặc” của Nguyễn Hữu Tiến (1916) có vẽ một hình chân dung hư cấu về Hồ Xuân Hương.

Trong sự quan tâm về giới như vậy, Xuân Hương có viết một bài về những người có giới tính thứ ba, hay nói như cách nói phổ biến hiện nay là LGBT. Đó là bài Vô âm nữ.

Mười hai bà mụ ghét chi nhau?

Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?

Rúc rích thây cha con chuột nhắt

Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.

Đố ai biết được vông hay chóc,

Còn kẻ nào hay cuống với đầu.

Thôi thế thì thôi, thôi cũng được,

Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu.

“Vô âm nữ” là cô gái không có âm vật, không có cơ quan sinh dục nữ. Có văn bản đặt tên bài này là Quan thị tức hoạn quan, thế là không đúng, vì đây không phải là nam giới bị thiến hoạn mà là nữ nhưng không có cơ quan sinh dục nữ, bẩm sinh như vậy: mười hai bà mụ nặn ra người này đã quên làm, đã vứt bỏ “cái xuân tình” đi rồi.

Chúng ta không thể đòi hỏi Hồ Xuân Hương có cái nhìn hiện đại như chúng ta ngày nay về LGBT, nhưng cái nhìn của Xuân Hương thể hiện trong bài thơ ấy khiến chúng ta không khỏi ngạc nhiên. Trong xã hội Nho giáo nặng nề với quan niệm trọng nam, trọng đạo đức, trọng sự sinh con đẻ cái “con đàn cháu đống” nối dõi tông đường ngày xưa, mà Hồ Xuân Hương có cái nhìn khá “thoáng”, khá cảm thông, thân thiện với một người LGBT như trong bài thơ này là điều hết sức đặc biệt.

Trước hết Hồ Xuân Hương cho thấy “vô âm” là sản phẩm của Tạo hóa, của “mười hai bà mụ”, con người vô can, con người không phải chịu trách nhiệm gì về chuyện này. Ca dao có câu “Con gái mười bảy mười ba/ Đêm nằm với mẹ chuột tha mất l.”. Chính vì không có cái “xuân tình” nên con chuột nhắt có rúc rích cũng “thây cha” nó, con ong có vo ve cũng “mặc mẹ” nó. Hình ảnh con chuột, con ong ý chỉ chuyện chim chuột, ong bướm – mà chuyện chim chuột, ong bướm là chuyện trai gái không tử tế, không đoan chính. Vậy, không có cái “xuân tình” thì không sợ mang tiếng chuyện tình cảm trai gái “trong ruộng dâu” như sách Thánh hiền xưa thường nhắc nhở – ý nhà thơ Hồ Xuân Hương có lẽ là vậy.

Thông thường trong xã hội phong kiến phương Đông người ta có cái nhìn rất khắt khe với LGBT, thậm chí có một số quốc gia, một số tôn giáo họ coi nó như trường hợp tội lỗi, ma quỷ ám, nhưng với Hồ Xuân Hương thì khác, nàng viết về nó với hàm ý cảm thông, không coi là cái gì thật nghiêm trọng, thậm chí nàng còn tìm một lí do để cho nó trở nên “có nghĩa” hơn bằng câu “Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu”.


“Bà chúa thơ Nôm” trong tranh vẽ xưa. 

Với bài Vô âm nữ, Hồ Xuân Hương là nhà thơ Việt Nam đầu tiên viết về cộng đồng LGBT.

Sau Hồ Xuân Hương cũng có một vài người nữa viết về giới LGBT, nhưng thường khuyết danh, tư liệu khó kiểm chứng. Đến đầu thế kỷ XX, nhà báo – nhà thơ Lê Sum ở Nam Bộ cũng có một bài về cộng đồng này. Đó là bài Con bóng lại cái trong thi tuyển Việt âm văn uyển nổi tiếng của ông:

Con bóng lại cái

Tạo hóa sao mà khéo trớ trinh

Sanh chi lại cái rất vô tình.

Trai trung gái hạnh không nhìn giống,

Vú mẹ mày cha đọ chẳng in.

Trăng gió dầu ai đam dạ quỷ,

Đá vàng giữ vẹn tấm lòng tinh

Cái duyên cầm sắt thài lai hỏi

Cam lỗi xin chờ kiếp tái sanh.

Bài thơ in trong Việt âm văn uyển do Lê Sum tuyển chọn, sách do nhà in/ Imprimerie J.Viết xuất bản năm 1919 ở Sài Gòn, tr.124.

Lê Sum có một cái nhìn khá cảm thông, dầu chưa thật công bằng như chúng ta ngày nay mong muốn. Với những từ ngữ như “con bóng lại cái”, “không giống” cho thấy Lê Sum còn định kiến, thiếu thân thiện so với nữ sĩ họ Hồ.

Vừa rồi UNESCO đã quyết định năm sau sẽ tổ chức kỷ niệm Hồ Xuân Hương (và Nguyễn Đình Chiểu) như là danh nhân văn hóa. Đó là quyết định hết sức hợp lý. Không nói về vấn đề nữ quyền, ngay như cái nhìn về người LGBT cũng cho thấy tư tưởng nhân văn và cái nhìn vượt thời đại của nữ sĩ.

 Nguyễn Thị Quốc Minh/Vanvn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm