TIN TỨC

Người trẻ thử sức với phê bình

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-04-27 12:25:47
mail facebook google pos stwis
1184 lượt xem

Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.

Tôi quý ở cây bút phê bình này trước hết do cái tình đồng nghiệp, cùng giáo giới với nhau, làm nghề dạy học môn Văn trong nhà trường. Chưa có ai làm phép thống kê, nhưng tôi tin rằng, chắc chắn có đến hơn một nửa trong số đội ngũ làm nghiên cứu, PBVH hiện nay hoặc xuất thân, hoặc đang là nhà giáo. Mà các nhà giáo dạy văn đương nhiên đều đi ra từ các “lò đào tạo” đại học văn học cả, cho dù cái đích của nơi đào tạo là để người học ra đời làm nghề dạy học hay nghiên cứu.

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh sinh thời hay nhắc đến câu nói của một nhà phê bình nào đó bên phương Tây rằng phê bình văn học sinh ra từ nền đại học, với cái ý là phần lớn các nhà phê bình được đào tạo từ các ngành văn chương bậc đại học, bởi ở đây mới có khả năng trang bị cho các cây bút phê bình năng lực nghiên cứu và tri thức văn chương mang tính chuyên nghiệp.

Trở lại với tác giả Lê Hương, chị là một cây bút được đào tạo bài bản về khoa học văn học, không chỉ bậc đại học mà còn sau đại học. Chị có điều kiện đọc nhiều, tiếp xúc nhiều với đội ngũ những người thầy đồng thời là các nhà nghiên cứu, phê bình; cũng lại được tiếp xúc nhiều với các tác giả, tác phẩm, các sinh hoạt văn học, các diễn đàn văn học nói chung. Tất cả những điều kể trên đã làm nên một cái phông nền khá yên tâm cho cây bút này bước vào công việc viết PBVH. Tuy nhiên, ai cũng hiểu, học ở nhà trường đại học là điều kiện cần nhưng chưa đủ (mà trên thực tế, sự học đối với một người làm nghề văn chương thì không bao giờ là đủ). Cái mang tính quyết định là ý chí và khả năng tự học không ngừng nghỉ của mỗi người cầm bút.

Nhìn vào tập sách này, ngoài ba trường hợp viết về sách của ba tác giả nước ngoài (trên bản chuyển ngữ), còn lại là 13 bài viết về tác phẩm của các tác giả đương đại trong nước.

Có lẽ bắt đầu đi từ tên cuốn sách. Đây là một cái tên hay, vừa có ý nghĩa tương đối rõ ràng lại vừa mang tính mở. “Phức cảm” vốn là một khái niệm gắn liền với lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud khi ông đề xuất khái niệm “Phức cảm Ơ-đíp” (Oedipus Complex) liên quan đến vấn đề tính dục ấu thơ của đứa trẻ gái/trai đối với cha/mẹ mình. Tạm gác lại nội hàm phức tạp của khái niệm này, tôi chỉ muốn nói rằng tác giả Lê Hương sử dụng hai chữ “phức cảm” được hiểu như một trạng thái cảm xúc phức tạp không dễ nắm bắt (khi rõ ràng, khi mơ hồ; khi thuộc về ý thức, khi thuộc về vô thức; có khi mang tính tích cực lại có khi mang tính tiêu cực… nằm trong cơ chế tinh thần của mỗi cá thể) làm tên tác phẩm của mình. Phức cảm luôn thuộc về cá nhân, hiện diện và chi phối đời sống cụ thể của mỗi cá nhân. Lê Hương đã trưng dụng khái niệm “phức cảm” với cái nghĩa này, và coi mỗi nhà nghệ sĩ khi thể hiện về con người chính là nắm bắt và thể hiện “những phức cảm phận người”. Tên cuốn sách là cái tứ của tập sách, vừa như một sự tự ý thức của người viết nhằm tạo nên một sự nhất quán nào đó, lại như một dấu hiệu gợi ý cho người đọc.

Trên thực tế, người viết không hẳn hoàn toàn đi theo một hướng tiếp cận rõ ràng nào, mà linh hoạt vận dụng một số điểm thích hợp với từng đối tượng từ các hướng tiếp cận thi pháp học, phân tâm học, nữ quyền luận, hậu hiện đại…

Ở một số trường hợp, tác giả Lê Hương đã vận dụng lý thuyết phân tâm học. Có vẻ như Lê Hương khá thích thú với lý thuyết này trong việc ứng dụng để cắt nghĩa tác phẩm văn học. Trong những bài viết về thơ Hoàng Thụy Anh (“Bản ngã cô đơn của EM”), về tiểu thuyết của Hữu Phương (“Con người tính dục trong Súng nổ bến thiên đường”)…, tác giả đã vận dụng một ít tri thức của phân tâm học để cắt nghĩa tác phẩm.

Thấy đây đó, tác giả có liên hệ hoặc vận dụng một chút lý thuyết nữ quyền luận khi đi vào tác phẩm. Thể hiện rõ nhất điều này là bài viết “Ý thức nữ quyền trong Nếu chỉ có một ngày để sống”, một tiểu thuyết của Nicola Yoon. Ở đây, tác giả bài viết căn cứ vào tác giả và nhân vật đều là người nữ để đặt ra và phân tích mấy vấn đề: Người phụ nữ với khát vọng giải phóng, Người phụ nữ luôn trong thế chủ động (trong cuộc sống, trong tình yêu). Nhờ có cách tiếp cận này, bài viết đã thấy được thành công riêng và hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm.

Cũng lại chỗ khác, tác giả Lê Hương đã vận dụng cái nhìn của lý thuyết hậu hiện đại một cách thích hợp để soi chiếu vào thế giới nghệ thuật của nhà thơ Đỗ Thành Đồng, chỉ ra được “cái tôi không toàn vẹn, mà đã bị phân rã, tác động bởi hiện thực khách quan”. Hay chị cũng đã vận dụng lý thuyết chấn thương để soi vào tác phẩm như trong bài “Kiểu con người chấn thương trong Giữa hai chúng ta”…

Tuy chưa phải đã hết, nhưng chỉ mấy ví dụ kể trên cho thấy ngòi bút Lê Hương rất chủ động tìm hiểu các lý thuyết, phương pháp nghiên cứu hiện đại, lấy đó làm điểm tựa để khám phá tác phẩm và thế giới nghệ thuật của nhà văn. Đây là một ý thức rất quan trọng để bảo đảm cho một người làm phê bình chuyên nghiệp vượt lên cái nhìn cảm tính, tiến tới những giải mã mang tính khoa học, thuyết phục. Làm phê bình, vận dụng các tri thức lý thuyết có nhiều cấp độ. Có cấp độ trực tiếp, tức là dựa vào các tri thức lý thuyết được trích dẫn, sau đó lấy tác phẩm để chứng minh cho nó. Có cấp độ gián tiếp theo cách ẩn lý thuyết, chỉ cần nắm lấy chính xác tinh thần của lý thuyết để khám phá tác phẩm/tác giả. Mỗi kiểu vận dụng có cái hay riêng. Tuy nhiên, dù cách nào đi chăng nữa vẫn cần đảm bảo tính tương hợp giữa đối tượng và phương pháp, đối tượng ấy chỉ có thể tương thích với phương pháp ấy, không có phương pháp vạn năng. Nếu không hiểu điều này, việc vận dụng sẽ bị gượng ép, áp đặt, chuệch choạc theo kiểu “Đẽo chân cho vừa giầy”, hoặc “Dùng dao mổ trâu để giết gà”… Về cơ bản Lê Hương đã vượt qua thử thách này. Nhưng ngay ở điểm này cũng lại đặt ra vấn đề cần nắm thật chắc lý thuyết, hiểu cho đúng và sâu các điểm cốt lõi của lý thuyết để khi vận dụng không bị sơ lược hoặc thiếu chính xác.

Một thao tác tương đối nhất quán trong các bài viết của Lê Hương là nghiêng về lối viết thẩm bình, bình giảng. Thao tác thẩm bình, bình giảng (vừa bình luận vừa giảng giải) cũng rất cần trong các trang viết phê bình, và ai cũng phải sử dụng. Nó khiến cho tác giả có điều kiện phô diễn sự tinh tế và cá tính của ngòi bút. Cách làm của Lê Hương thường là đưa ra một nhận định có tính khái quát, sau đó diễn dịch bằng các minh chứng thuộc về dẫn chứng và diễn giải, nhất là các dẫn chứng mà chị hay gọi là “mã tự”. Cách làm này rất giống với lối giảng văn ở nhà trường các cấp. Lê Hương là một cô giáo dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông, nên dấu vết nghề nghiệp để lại khá rõ lên trang viết. Nhờ đó, một số trang viết có được độ tinh tế, giàu cảm xúc. Tuy nhiên, về điểm này, tác giả cần khéo léo và đa dạng hơn, nếu không sẽ dễ bị lặp thao tác, hạn chế hiệu quả của bài viết đối với bạn đọc. Đã có lần, các bậc thầy làm nghiên cứu, phê bình văn học như Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến cũng đã nhắc đến với cái ý cho rằng có một số cây bút chưa thoát hẳn dấu vết “ông đồ” trong bài viết của mình, tức muốn nói đến thao tác giảng bình có phần bị lạm dụng trong bài viết…

Đối với một bài phê bình, có nhiều yêu cầu khác nhau. Nhưng theo tôi, có hai điểm quan trọng: thứ nhất, muốn tiếp cận theo cách nào đi chăng nữa nhưng các kết quả đưa ra trong bài viết phải có khả năng thuyết phục bạn đọc; và thứ hai, bài viết phải có giọng, có cá tính, có “vân chữ” riêng. Ở tác phẩm phê bình đầu tay này, Lê Hương đã có một số bài đáp ứng được đòi hỏi trên.

Trong bối cảnh ngày càng ít người viết trẻ theo nghề phê bình văn học, việc xuất hiện một cây bút phê bình như Lê Hương đã đem đến chút niềm vui ấm áp cho đời sống phê bình văn học hiện nay.

THEO NGÔ VĂN GIÁ/ VAN.VN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm