TIN TỨC

Nhà trí thức Phùng Văn Cung với cách mạng miền Nam

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
33 lượt xem

Thái Hải Đăng

Bác sĩ Phùng Văn Cung sinh ngày 15 tháng 5 năm 1909 tại làng Tân An, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long (nay là khóm 1, phường 9, thành phố Vĩnh Long). Ông được người đời biết đến với danh tiếng là một y sĩ tài ba, đức độ đáng mến, luôn tận tâm phụng sự cho sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ đất nước bị chia cắt bởi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Theo ký ức của những người thân kể lại, từ nhỏ ông đã sớm bộc lộ đức tính siêng năng mẫn tiệp, chịu khó mày mò học hỏi và là một người con hiếu thảo, biết thương người. Tư chất hiếu học và ý chí phấn đấu trong đạo đức, lối sống đã trở thành kim chỉ nam giúp ông giành được học bổng từ bậc trung học đến đại học, sau đó ông theo học tại Đại học Y khoa Hà Nội và tốt nghiệp năm 1937.

Khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945, ông về quê vợ ở Sa Đéc để hành nghề y, chữa bệnh và giúp đỡ người dân. Tiếng tăm về tài năng và lòng nhân ái của ông nhanh chóng lan rộng, được mọi người xa gần biết đến như một danh y tài ba, luôn sẵn lòng giúp đỡ và chữa trị tận tình cho người bệnh.

Tổng khởi nghĩa tháng Tám nổ ra khắp toàn cõi Việt Nam, ông tham gia giành chính quyền ở Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp. Sau khởi nghĩa, trước khi dấn thân sâu hơn vào con đường cách mạng, ông vẫn tiếp tục tận tụy với nghề y, chăm sóc bệnh nhân một cách hết lòng. Với lòng thương người vô hạn, nhiều lúc ông không nhận tiền chữa bệnh mà còn giúp tiền về xe cho dân nghèo từ khắp nơi kéo đến tìm ông chữa trị. Tấm lòng của bác sĩ Phùng Văn Cung đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người dân, ông dần trở thành biểu tượng của y đức và lòng từ bi trong thời kỳ khó khăn ấy.

Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Việt Nam tạm chia thành hai miền Nam - Bắc ở vĩ tuyến 17. Trong bối cảnh đó, ông bí mật cho hai con trai là Phùng Ngọc Thạch và Phùng Ngọc Ẩn ra Bắc tiếp tục học tập. Năm 1957, với tài năng và đức độ lan xa, ông được bổ nhiệm giữ chức Giám đốc Y tế ở các tỉnh Châu Đốc (An Giang ngày nay) và Rạch Giá (Kiên Giang ngày nay). Sau đó, ông làm bác sĩ tại Y viện Phước Kiến ở Chợ Lớn (nay là bệnh viện Nguyễn Trãi).

Nhà nghiên cứu Thái Hải Đăng (giữa) trong một buổi giao lưu khoa học

Năm 1956, sau khi Mỹ - Diệm ban hành chính sách “tố cộng diệt cộng”, mà đỉnh điểm là Luật 10-59 nhằm ra sức răn đe, đàn áp và thảm cảnh lê máy chém khắp miền Nam công khai giết hại những người yêu nước, tàn sát đồng bào man rợn với nhiều khẩu hiệu phản động như “đồng tâm diệt cộng”, “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, “tiêu diệt cộng sản tận gốc”, “tiêu diệt cán bộ nằm vùng”… Trong bối cảnh đó, bác sĩ Phùng Văn Cung luôn có thái độ chống lại chính sách man rợn của chính quyền Ngô Đình Diệm. Sống trong lòng giặc nhưng ông vẫn mưu trí qua mắt được chúng, giúp đỡ chiến sĩ cách mạng ngay trong bệnh viện, bí mật ra bưng biền điều trị thương binh, vận động tiền bạc, thuốc men gửi vào chiến trận. Có lần bị địch phát hiện, chúng đã gọi ông đến tra hỏi và ra sức răn đe, ông trả lời: “Tôi vị Việt Minh bắt vào bưng chữa trị cho thương binh rồi thả về. Các ông không bảo vệ được tôi tại sao còn tra hỏi…”. Khi Tổng nha cảnh sát đô thành Sài Gòn đe doạ đòi “ném ông xuống hầm axít nếu còn hoạt động dính líu đến cộng sản!”, ông vẫn bình thản tiếp tục thực hiện nghĩa cử mà con tim giao phó.

Trong con mắt của những kẻ ngày đêm soi xét, chú tâm dòm ngó, chúng thừa biết và không thiếu lý do để đưa ông vào “máy chém” nhưng vì ông là một nhà trí thức có y đức vượt trội nên chúng không dám động đến. Ông trở thành một biểu tượng mà ngay cả những kẻ khát máu cũng phải e dè và kính trọng.

Tháng 1/1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá II) họp Hội nghị lần thứ 15 quyết định để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng đánh đổ Mĩ - Diệm, xác định phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa dành chính quyền về tay nhân dân bằng con đường đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Đồng thời, Hội nghị cũng chủ trương nhân dân miền Nam cần có một Mặt trận dân tộc thống nhất riêng với tính chất, nhiệm vụ và thành phần thích hợp. Lúc bấy giờ yêu cầu tổ chức, bác sĩ Phùng Văn Cung cùng gia đình đã để lại sau lưng cơ nghiệp đồ sộ để ra đi cùng cách mạng. Đó là quyết định vô cùng dũng cảm. Sự ra đi này không chỉ thể hiện lòng yêu nước sâu sắc mà còn khẳng định sự kiên định và lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng. Sự lựa chọn và hành động dứt khoát này đã để lại một di sản tinh thần vô giá, như một người đốt đuốc dẫn đường cho những ai còn lung lay ý chí lúc bấy giờ.

Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập, với uy tín của mình, bác sĩ Phùng Văn Cung được bầu làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Vào năm 1969, một bước ngoặt quan trọng diễn ra khi bác sĩ Phùng Văn Cung được cử làm trưởng Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam để thăm Bác Hồ và nhân dân miền Bắc. Trong buổi tiếp đón trọng thể, để động viên đồng bào miền Nam, Bác Hồ đã phát biểu đầy xúc động: “Hôm nay, đồng chí Phùng Văn Cung cùng phái đoàn ra đây, đồng bào miền Bắc rất sung sướng. Để mà hoan nghênh phái đoàn miền Nam ruột thịt thì nói mấy trăm câu, mấy nghìn câu, mấy vạn câu cũng không thể hết được. Tôi xin phép nói một câu thôi: Bao giờ Nam Bắc một nhà/ Việt Nam đại thắng chúng ta vui mừng”[1].

Đây không chỉ là một cuộc gặp gỡ giữa hai cá nhân, mà là một sự kiện trọng đại của dân tộc. Bác Hồ, đại diện cho Đảng và nhân dân miền Bắc, và bác sĩ Phùng Văn Cung, đại diện cho miền Nam, đã gặp nhau trong bối cảnh đặc biệt, tạo nên hình ảnh mạnh mẽ của sức mạnh đoàn kết và thống nhất dân tộc.

Tháng 6/1969, tại Đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam, ông được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đến khi cách mạng thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, bác sĩ Phùng Văn Cung trở lại Sài Gòn sinh sống và làm việc.

Ngày 7/11/1987, ông từ trần tại thành phố Hồ Chí Minh sau một thời gian lâm bệnh và do tuổi cao, sức yếu. Cả cuộc đời ông, từ lúc sinh ra đến lúc thác đi quả là một huyền thoại sống.

Ở địa vị là một người chồng, ông Sáu Cung luôn nhớ tới công lao phò trợ phu quân của vợ mình, khi được Chính phủ trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì, ông khiêm tốn trả lời: “Lẽ ra phần thưởng cao quý này phải được trao tặng cho vợ tôi (Bà Lê Thoại Chi) thì mới đúng hơn”. Ở địa vị là một thầy thuốc, bác sĩ Phùng Văn Cung đã làm tròn bổn phận của một lương y, một bác sĩ tài ba, tận tuỵ chăm sóc bệnh nhân, không phân biệt sang hèn nghèo khó. Đến vai trò là một người cha, ông đã tính sẵn đường hướng học tập của các con trong thời loạn lạc. Đến khi là một nhà cách mạng, bác sĩ Phùng Văn Cung đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, từ bỏ cuộc sống an nhàn để tham gia vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, cống hiến cả một phần đời cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước.

Bác sĩ, nhà trí thức yêu nước Phùng Văn Cung là hình mẫu tiêu biểu cho người con hào hùng của mảnh đất Vĩnh Long nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Cuộc đời ông là minh chứng cho sự kết hợp giữa trí tuệ, lòng yêu nước và tinh thần hy sinh của dân tộc. Những cống hiến to lớn của ông luôn là nguồn cảm hứng, là tấm gương lớn lao cho các thế hệ mai sau mỗi khi nhắc nhở về giá trị của lòng yêu nước và về trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước và dân tộc.

 

T.H.Đ


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tập 12, tr. 447.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trăng Lạnh” và một trái tim ấm áp
“Trăng lạnh”, tập thơ mới nhất của nhà thơ Trần Thế Tuyển đến với tôi như một một món quà tặng của người anh “đồng đội”, như một sự chia sẻ cảm xúc của người yêu văn thơ, để cùng ngân nga lọc tìm những câu thơ đẹp, để có những khoảnh khắc lắng đọng chiêm nghiệm nhân gian thế sự, để càng trân quý hơn cuộc sống, tình yêu và sự thanh bình…
Xem thêm
“Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại”
Nhà phê bình văn học là người có tâm hồn giao cảm mãnh liệt với từng lời văn, con chữ và những giai điệu du dương của thơ ca. Họ đã có những cảm nghiệm sâu sắc giữa thơ văn và đời mình. Với họ, mỗi tác phẩm văn học không chỉ là một tư tưởng cần được khám phá mà còn là một thế giới sống động, nơi những dòng chữ biết thủ thỉ cùng tâm hồn.
Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm