TIN TỨC

Nhà trí thức Phùng Văn Cung với cách mạng miền Nam

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-11-17 09:30:44
mail facebook google pos stwis
494 lượt xem

Thái Hải Đăng

Bác sĩ Phùng Văn Cung sinh ngày 15 tháng 5 năm 1909 tại làng Tân An, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long (nay là khóm 1, phường 9, thành phố Vĩnh Long). Ông được người đời biết đến với danh tiếng là một y sĩ tài ba, đức độ đáng mến, luôn tận tâm phụng sự cho sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ đất nước bị chia cắt bởi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Theo ký ức của những người thân kể lại, từ nhỏ ông đã sớm bộc lộ đức tính siêng năng mẫn tiệp, chịu khó mày mò học hỏi và là một người con hiếu thảo, biết thương người. Tư chất hiếu học và ý chí phấn đấu trong đạo đức, lối sống đã trở thành kim chỉ nam giúp ông giành được học bổng từ bậc trung học đến đại học, sau đó ông theo học tại Đại học Y khoa Hà Nội và tốt nghiệp năm 1937.

Khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945, ông về quê vợ ở Sa Đéc để hành nghề y, chữa bệnh và giúp đỡ người dân. Tiếng tăm về tài năng và lòng nhân ái của ông nhanh chóng lan rộng, được mọi người xa gần biết đến như một danh y tài ba, luôn sẵn lòng giúp đỡ và chữa trị tận tình cho người bệnh.

Tổng khởi nghĩa tháng Tám nổ ra khắp toàn cõi Việt Nam, ông tham gia giành chính quyền ở Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp. Sau khởi nghĩa, trước khi dấn thân sâu hơn vào con đường cách mạng, ông vẫn tiếp tục tận tụy với nghề y, chăm sóc bệnh nhân một cách hết lòng. Với lòng thương người vô hạn, nhiều lúc ông không nhận tiền chữa bệnh mà còn giúp tiền về xe cho dân nghèo từ khắp nơi kéo đến tìm ông chữa trị. Tấm lòng của bác sĩ Phùng Văn Cung đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người dân, ông dần trở thành biểu tượng của y đức và lòng từ bi trong thời kỳ khó khăn ấy.

Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Việt Nam tạm chia thành hai miền Nam - Bắc ở vĩ tuyến 17. Trong bối cảnh đó, ông bí mật cho hai con trai là Phùng Ngọc Thạch và Phùng Ngọc Ẩn ra Bắc tiếp tục học tập. Năm 1957, với tài năng và đức độ lan xa, ông được bổ nhiệm giữ chức Giám đốc Y tế ở các tỉnh Châu Đốc (An Giang ngày nay) và Rạch Giá (Kiên Giang ngày nay). Sau đó, ông làm bác sĩ tại Y viện Phước Kiến ở Chợ Lớn (nay là bệnh viện Nguyễn Trãi).

Nhà nghiên cứu Thái Hải Đăng (giữa) trong một buổi giao lưu khoa học

Năm 1956, sau khi Mỹ - Diệm ban hành chính sách “tố cộng diệt cộng”, mà đỉnh điểm là Luật 10-59 nhằm ra sức răn đe, đàn áp và thảm cảnh lê máy chém khắp miền Nam công khai giết hại những người yêu nước, tàn sát đồng bào man rợn với nhiều khẩu hiệu phản động như “đồng tâm diệt cộng”, “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, “tiêu diệt cộng sản tận gốc”, “tiêu diệt cán bộ nằm vùng”… Trong bối cảnh đó, bác sĩ Phùng Văn Cung luôn có thái độ chống lại chính sách man rợn của chính quyền Ngô Đình Diệm. Sống trong lòng giặc nhưng ông vẫn mưu trí qua mắt được chúng, giúp đỡ chiến sĩ cách mạng ngay trong bệnh viện, bí mật ra bưng biền điều trị thương binh, vận động tiền bạc, thuốc men gửi vào chiến trận. Có lần bị địch phát hiện, chúng đã gọi ông đến tra hỏi và ra sức răn đe, ông trả lời: “Tôi vị Việt Minh bắt vào bưng chữa trị cho thương binh rồi thả về. Các ông không bảo vệ được tôi tại sao còn tra hỏi…”. Khi Tổng nha cảnh sát đô thành Sài Gòn đe doạ đòi “ném ông xuống hầm axít nếu còn hoạt động dính líu đến cộng sản!”, ông vẫn bình thản tiếp tục thực hiện nghĩa cử mà con tim giao phó.

Trong con mắt của những kẻ ngày đêm soi xét, chú tâm dòm ngó, chúng thừa biết và không thiếu lý do để đưa ông vào “máy chém” nhưng vì ông là một nhà trí thức có y đức vượt trội nên chúng không dám động đến. Ông trở thành một biểu tượng mà ngay cả những kẻ khát máu cũng phải e dè và kính trọng.

Tháng 1/1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá II) họp Hội nghị lần thứ 15 quyết định để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng đánh đổ Mĩ - Diệm, xác định phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa dành chính quyền về tay nhân dân bằng con đường đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Đồng thời, Hội nghị cũng chủ trương nhân dân miền Nam cần có một Mặt trận dân tộc thống nhất riêng với tính chất, nhiệm vụ và thành phần thích hợp. Lúc bấy giờ yêu cầu tổ chức, bác sĩ Phùng Văn Cung cùng gia đình đã để lại sau lưng cơ nghiệp đồ sộ để ra đi cùng cách mạng. Đó là quyết định vô cùng dũng cảm. Sự ra đi này không chỉ thể hiện lòng yêu nước sâu sắc mà còn khẳng định sự kiên định và lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng. Sự lựa chọn và hành động dứt khoát này đã để lại một di sản tinh thần vô giá, như một người đốt đuốc dẫn đường cho những ai còn lung lay ý chí lúc bấy giờ.

Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập, với uy tín của mình, bác sĩ Phùng Văn Cung được bầu làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Vào năm 1969, một bước ngoặt quan trọng diễn ra khi bác sĩ Phùng Văn Cung được cử làm trưởng Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam để thăm Bác Hồ và nhân dân miền Bắc. Trong buổi tiếp đón trọng thể, để động viên đồng bào miền Nam, Bác Hồ đã phát biểu đầy xúc động: “Hôm nay, đồng chí Phùng Văn Cung cùng phái đoàn ra đây, đồng bào miền Bắc rất sung sướng. Để mà hoan nghênh phái đoàn miền Nam ruột thịt thì nói mấy trăm câu, mấy nghìn câu, mấy vạn câu cũng không thể hết được. Tôi xin phép nói một câu thôi: Bao giờ Nam Bắc một nhà/ Việt Nam đại thắng chúng ta vui mừng”[1].

Đây không chỉ là một cuộc gặp gỡ giữa hai cá nhân, mà là một sự kiện trọng đại của dân tộc. Bác Hồ, đại diện cho Đảng và nhân dân miền Bắc, và bác sĩ Phùng Văn Cung, đại diện cho miền Nam, đã gặp nhau trong bối cảnh đặc biệt, tạo nên hình ảnh mạnh mẽ của sức mạnh đoàn kết và thống nhất dân tộc.

Tháng 6/1969, tại Đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam, ông được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đến khi cách mạng thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, bác sĩ Phùng Văn Cung trở lại Sài Gòn sinh sống và làm việc.

Ngày 7/11/1987, ông từ trần tại thành phố Hồ Chí Minh sau một thời gian lâm bệnh và do tuổi cao, sức yếu. Cả cuộc đời ông, từ lúc sinh ra đến lúc thác đi quả là một huyền thoại sống.

Ở địa vị là một người chồng, ông Sáu Cung luôn nhớ tới công lao phò trợ phu quân của vợ mình, khi được Chính phủ trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì, ông khiêm tốn trả lời: “Lẽ ra phần thưởng cao quý này phải được trao tặng cho vợ tôi (Bà Lê Thoại Chi) thì mới đúng hơn”. Ở địa vị là một thầy thuốc, bác sĩ Phùng Văn Cung đã làm tròn bổn phận của một lương y, một bác sĩ tài ba, tận tuỵ chăm sóc bệnh nhân, không phân biệt sang hèn nghèo khó. Đến vai trò là một người cha, ông đã tính sẵn đường hướng học tập của các con trong thời loạn lạc. Đến khi là một nhà cách mạng, bác sĩ Phùng Văn Cung đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, từ bỏ cuộc sống an nhàn để tham gia vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, cống hiến cả một phần đời cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước.

Bác sĩ, nhà trí thức yêu nước Phùng Văn Cung là hình mẫu tiêu biểu cho người con hào hùng của mảnh đất Vĩnh Long nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Cuộc đời ông là minh chứng cho sự kết hợp giữa trí tuệ, lòng yêu nước và tinh thần hy sinh của dân tộc. Những cống hiến to lớn của ông luôn là nguồn cảm hứng, là tấm gương lớn lao cho các thế hệ mai sau mỗi khi nhắc nhở về giá trị của lòng yêu nước và về trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước và dân tộc.

 

T.H.Đ


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tập 12, tr. 447.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm