TIN TỨC

Phan Thị Thanh Nhàn nửa thế kỷ vấn vương “Hương Thầm”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-06-23 10:39:47
mail facebook google pos stwis
2475 lượt xem

Lê Thiếu Nhơn

 Tên tuổi thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn gắn liền với bài thơ “Hương thầm” phổ nhạc thành một ca khúc nổi tiếng. Bài thơ “Hương thầm” được thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn sáng tác năm 1969, đến nay đã tròn nửa thế kỷ. Nhiều thế hệ đã hát “Hương thầm” với niềm mến mộ dành cho thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn. Thế nhưng, công bằng mà nói, thơ Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ có “Hương thầm”!

Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn

Bây giờ, gặp thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn ngoài đời, ít ai nghĩ rằng chị đã qua tuổi “cổ lai hy” từ lâu. Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn có nét vui vẻ, hòa đồng, trẻ trung và điệu đà của riêng chị. Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn sinh năm 1943 tại mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi mà tuổi 30 chị đã viết bài thơ dài “Thành phố tôi yêu” với những nghẹn ngào về cuộc sống thơ ấu bên Đê La Thành “Lá cải già mẹ không nỡ bỏ đi/ Vại dưa mặn suốt thời thơ bé/ Guốc không có, chân lau vào chổi rễ/ Chị lớn rồi, áo chật vá nhường em” và những câu hăng say cổ vũ phát triển đô thị “Tay Hà Nội vươn dài theo quy hoạch/ Nao nức nghĩ về thành phố tương lai”. Sau khi tốt nghiệp Khoa Báo chí – Trường Tuyên giáo Trung ương, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn từng làm phóng viên báo Hà Nội Mới rồi chuyển sang làm Phó Tổng Biên tập báo Người Hà Nội. Nói chung, về sự cống hiến và sự thành đạt giữa đời thường, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn không hề thua kém ai. Thế nhưng, điều tạo ra đột phá trong số phận của chị, vừa nâng đỡ lại vừa bất trắc, chính là thơ.

Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn bắt đầu xuất hiện trong làng thơ bằng ấn tượng ở cuộc thi thơ năm 1969 – 1970 của báo Văn Nghệ. Với hai bài “Hương thầm” và “Xóm đê”, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn đã giành được giải nhì cùng với Vương Anh và Bế Kiến Quốc (giải nhất thuộc về Phạm Tiến Duật). Cùng sánh vai nhau thuở khởi nghiệp của thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn, nhưng những câu thơ trong bài thơ “Xóm đê” như “Chuyện cũ xóm đê để lại nếp nhăn trên trán mẹ/ Nhưng chúng tôi lớp trẻ vô tư/ Cứ lớn lên rộn rã ước mơ/ Có lúc quên ngoái nhìn quá khứ” không được mấy ai nhớ như bài thơ “Hương thầm”. Mang bóng dáng một câu chuyện lãng mạn, bài thơ “Hương thầm” miên man kỷ niệm: “Cửa sổ hai nhà cuối phố/ Không hiểu vì sao không khép bao giờ/ Đôi bạn ngày xưa học cùng một lớp/ Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa/ Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm/ Bên ấy có người ngày mai ra trận/ Họ ngồi im không biết nói năng chi/ Mắt chợt tìm nhau rồi lại quay đi/ Nào ai đã một lần dám nói/ Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối/ Anh không dám xin/ Cô gái chẳng dám trao/ Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao/ Không dấu được cứ bay dịu nhẹ/ Cô gái như chùm hoa lặng lẽ/ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu/ (Anh vô tình anh chẳng biết điều/ Tôi đã đến với anh rồi đấy…)/ Rồi theo từng hơi thở của anh/ Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực/ Anh lên đường/ Hương thơm sẽ theo đi khắp/ Họ chia tay/ Vẫn chẳng nói điều gì/ Mà hương thầm thơm mãi bước người đi”.

Tuyển tập Phan Thị Thanh Nhàn

Năm 1984, tức là 15 năm sau khi bài thơ “Hương thầm” ra mắt, nhạc sĩ Vũ Hoàng đã phổ nhạc thành một ca khúc cùng tên. Phải thừa nhận, nhạc sĩ Vũ Hoàng đã sử dụng hầu hết những câu thơ quan trọng của bài thơ để làm ca khúc, nhưng lại vô tình tạo nên một…sự lệch lạc so với nguyên tác. Bài thơ “Hương thầm” viết “cửa số hai nhà cuối phố, không hiểu vì sao không khép bao giờ”, còn ca khúc thì “khung cửa sổ hai nhà cuối phố, chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ”. Có thể do phục vụ giai điệu và tiết tấu, phải thêm chữ “khung”, nhưng ngẫm nghĩ thì thấy rất buồn cười. Cửa sổ mới có khả năng khép hoặc mở, còn cái khung của cửa sổ thì phải cố định. Đã là “khung cửa sổ” thì vĩnh viễn “không khép bao giờ”, chứ đừng thắc mắc “vì sao”. Vậy mà, kỳ lạ thay, “khung cửa sổ” vẫn hát véo von suốt 35 năm qua.
Dù muốn dù không, vẫn có thể khẳng định, chỉ cần bài thơ “Hương thầm” cũng đủ lưu danh thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn vào lòng công chúng. Thế nhưng, thơ cũng có duyên có kiếp như người, có những bài thơ hay nhưng không thể vang dội bằng bài thơ được phổ nhạc. Ở trường hợp thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn xin lấy ví dụ bài thơ “Con đường” mà chị viết năm 20 tuổi: “Nếu anh đi với người yêu/ Chỉ mong anh nhớ một điều nhỏ thôi/ Con đường ta đã dạo chơi/ Xin đừng đi với một người khác em/ Hàng cây nay đã lớn lên/ Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau/ Hai ta không biết vì đâu/ Hai con đường rẽ ra xa nhau hoài/ Nếu cùng người mới dạo chơi/ Xin anh tránh nẻo đường vui ban đầu”. Thần thái của bài thơ “Con đường” nằm hết ở bốn câu đầu, nhưng nếu không có sự bâng quơ lý giải ở sáu câu sau thì lại mất đi cái tính ương gàn nhiễu sự của tuổi trẻ và tính đa đoan nũng nịu của thiếu nữ. Cũng với kiểu suy tư bất trắc ấy, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn cũng có hai câu thơ khiến nhiều người vội vàng hẹn hò và sốt ruột kết hôn bỗng dưng giật mình: “Người tôi yêu đã đi xa/ Người yêu tôi lại ở nhà, chán ghê!”.

Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn từng có những ngày vợ chồng ấm áp trong căn hộ tập thể trên cao mỗi ngày mơ màng nhìn xuống hồ Hoàn Kiếm với thi sĩ Thi Nhị. Đáng tiếc, hạnh phúc ngắn chẳng tày gang. Năm 1979, khi thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn đi thực tế sáng tác ở Nha Trang thì thi sĩ Thi Nhị mất đột ngột ở Hà Nội. Thời ấy, máy bay đâu có dễ dàng như hôm nay, khi người vợ trở về nhà thì thân nhân đã đưa người chồng ra nghĩa trang. Nỗi đau giống như một vết thương trong lòng thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn, thỉnh thoảng lại cồn cào trên trang thơ: “Ước gì gặp lại anh/ Dù chỉ trong phút cuối/ Để nói một lời thôi/ Em đã yêu anh nhất/ Ước gì giọt nước mắt/ Thấm được vào môi anh/ Để trong giờ phút cuối/ Anh biết em ở gần”. Sự bơ vơ ở thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ qua cảm nhận “Bữa ăn vắng một người/ Tìm đâu ra mùi vị/ Khói cơm cay mắt thế/ Bây giờ em mới hay/ Hun hút hai hàng cây/ Gió thổi dài ngơ ngác/ Thành phố vắng một người/ Đường không ai dạo chơi” mà còn qua hành động “Một mình tìm đến cùng anh/ Nghĩa trang chiều muộn lặng thinh gót giày/ Khói nhang nhè nhẹ thẳng bay/ Nối em vào cõi khói mây nhạt nhòa”.

Mất chồng, một mình nuôi con, một mình dựng nhà, một mình làm thơ, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn dựa vào trái tim yếu mềm mà đi qua những ngày âm u. Góa bụa ở tuổi 36 là một cảm giác kinh khủng, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn hiểu như vậy, và không khép cửa bao nhiêu tơ vương đến với mình tình cờ hoặc toan tính: “Bất ngờ ai bỗng gọi em/ Cho tôi bối rối lặng im mỉm cười”. Thậm chí, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn bẽ bàng “Rồi có thể vợ và con ríu rít/ Anh nhẹ nhàng quên hết chuyện đôi ta/ Anh hối hả đón cuộc đời hạnh phúc/ Tôi bàng hoàng mãi chẳng hiểu ra” rồi chấp nhận “Và bây giờ người ấy đã ra đi/ Tôi bỗng thấy đàn ông xa lạ quá/ Hình như họ có chút gì hoang dã/ Có chút gì tàn nhẫn vô tâm”. Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn lấy sự hồn nhiên để an ủi sự cam chịu. Chị dùng đôi mắt độ lượng để tạm biệt những cái cũ, từ tạm biệt “Người yêu cũ” quay lưng: “Như giếng cạn giấu sao trời dưới đáy/ Anh mãi là kỷ niệm thuở ngây thơ/ Hãy thơm phức như trái cây chờ hái/ Đừng bắt em uống cạn chén trà thô”, đến tạm biệt “Những bài thơ cũ” ngậm ngùi: “Với tôi thuở ấy thiêng liêng/ Câu thơ đập giữa nhịp tim bất ngờ/ Nay còn ai được như xưa/ Còn ai xứng với bài thơ tôi cầm” và tạm biệt cả “Nhà cũ” bồi hồi ký ức: “Căn nhà đã nhốt/ Những ngày trong veo/ Mùa xuân còn mãi/ Nơi mình buông neo”. Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn bộc bạch: “Tôi là người chỉ nhìn cái đẹp, cái đáng yêu của đời sống và mỗi con người. Trong tình yêu, tôi thường nói là tôi làm thơ thất tình là chính. Nhưng chính những người mà tôi đã từng yêu và đã từng thất vọng, tôi vẫn giữ những kỷ niệm đẹp khi họ chưa bị lộ những điểm yếu mà sau này mình mới biết, đã khiến mình chán nản và từ bỏ. Nhưng cái gì đẹp thì tôi còn lưu giữ mãi. Tôi cảm ơn tất cả các chàng đã có lúc khiến tôi xúc động làm được thơ ghi lại tình cảm chân thành của tôi dành cho họ. Tôi đã có những bài thơ được bạn bè và người đọc chia sẻ, yêu thích. Đó là nhờ tôi đã… yêu nhầm khi nghĩ là họ đáng yêu. Thế là quá “lãi” với tôi rồi!”.

Tuy nhiên, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ có thơ tình. Thơ về sản xuất hoặc thơ về thời sự cũng được chị viết khá khéo léo. Chị nhờ hai câu lục bát cứu bài thơ “Hội cấy mùa xuân” khỏi không khí thơ phong trào “Đừng khen làm cuống chân em/ Đừng khen kẻo mạ cắm nghiêng bây giờ”. Chị nhờ bốn câu kết mà cứu bài thơ “Chân dung người chiến thắng” viết về ngày 30-4-1975 khỏi không khí minh họa “Tôi trở về nhà với ngọn đèn con/ Viết lại xóa bài thơ không đủ ý/ Đành ghi chép vào sổ tay thầm nghĩ/ Những ngày này tự nó đã là thơ”. Do đó, khi day dứt, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn cũng có những câu thơ nhức nhối: “Có đôi lúc buồ/ Tôi đã định tự tử/ Sống làm chi khi bè bạn bon chen/ Cơ quan quanh năm đấu đá/ Sống làm chi khi người yêu thành người lạ/ Ngày như đêm một mình/ Sống làm chi lương ba cọc ba đồng/ Viết báo làm thơ kiếm từng xu vẫn loay hoay không đủ/ Sống làm chi khi mọi tượng thần đều sụp đổ/ Người ta tin yêu lại hóa tầm thường/ Vậy mà tôi vẫn sống nhơn nhơn/ Vẫn cười nói họp hành trưng diện/ Vẫn hy vọng kiếm được một ông chồng đáng mến (một người đã thông minh lại giàu)/ Và tôi hiểu ra trong thăm thẳm niềm đau/ Tôi vẫn còn yêu đời quá”.

Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn được trao Giải thưởng Nhà nước năm 2007. Chị được độc giả chào đón khắp nơi với bài thơ “Hương thầm”, nhưng chị cũng gửi cho họ những băn khoăn của một người làm thơ biết đắn đo ân nghĩa, khi đến “Lam Kinh” nhìn ngắm di tích: “Thăm đất cũ một lần thôi, chợt thức/ Ai bây giờ xứng đáng với vua Lê?” và khi viết hộ người xa xứ về ấn tượng “Tổ quốc” sâu bền: “Mẹ Việt Nam gầy bé/ Mẹ Việt Nam kiên cường/ Suốt một đời lận đận/ Mà con giờ tha hương”./.

L.T.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm