TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Tấm lòng trĩu nặng nghĩa nhân trong “Đối diện chính mình của Phạm Trung Tín

Tấm lòng trĩu nặng nghĩa nhân trong “Đối diện chính mình của Phạm Trung Tín

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-05-30 09:48:34
mail facebook google pos stwis
1418 lượt xem

TRIỆU KIM LOAN

Phạm Trung Tín là hội viên HNV TP. Hồ Chí Minh, hội viên HNV Việt Nam, sinh ra ở Hải Phòng, từng tốt nghiệp cử nhân kinh tế và cử nhân triết học, hiện sinh sống và sáng tác tại TP. HCM. Cho đến nay, Phạm Trung Tín đã cho ra mắt bạn đọc 6 tập thơ Dặm dài ký ức (2013), Miền tâm tưởng (2014), Lời của đá (2015), Khoảng thức (2017), Đường chân trời (2019) và Đối diện chính mình (2022).

Đối diện chính mình là tựa đề mà tôi rất thích. Đây là tên một bài thơ được tác giả dùng làm tên gọi cho cả tập sách gợi nhiều ý nghĩa. Đối diện chính mình là lời tâm niệm của người thơ, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải đối diện chính mình để sống chính trực, ngay thẳng, nhân nghĩa và vượt lên nghịch cảnh. Tựa đề còn mang hàm ý nhìn lại bản thân, nhìn lại những thăng trầm được mất để vui, buồn, tự hào những giá trị của cuộc đời, từ đó trân quý những gì đang có. Khi bước vào con đường thi nghiệp, Đối diện chính mình còn là cách nhìn vào bản ngã để tìm tòi và làm mới bản thân trong nghệ thuật. Quan niệm mang tính triết lí này đã trở thành mạch nguồn cảm xúc chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.

Xuyên suốt tập thơ Đối diện chính mình, người đọc bắt gặp một người lính can trường trong cuộc chiến tranh chống Mĩ khốc liệt, một người chồng ân nghĩa, một người con hiếu thảo, một người cha mẫu mực và một người thơ có trách nhiệm với ngòi bút văn chương. Với lối viết thiên về tự sự, hướng về tha nhân, sử dụng nhiều thể loại nhưng chủ yếu là thể thơ lục bát truyền thống, thơ Phạm Trung Tín vẫn chuyển tải tinh tế cảm xúc nồng nàn và độ sâu triết lí nhân sinh. Đây chính là lí do thơ Phạm Trung Tín dễ tìm được sự đồng điệu, cảm thông, kết nối với bạn đọc xa gần ở nhiều lĩnh vực, nhiều độ tuổi. Nói như nhà văn Nguyễn Trường: “Anh ít viết cho mình mà viết nhiều cho bạn bè, đồng đội, những hoàn cảnh mỗi phận người. Thơ anh có cả tình, cảnh, con người và thiên nhiên nên làm cho người đọc dễ chịu khi cảm nhận”.

1. Đối diện chính mình - một tấm lòng trĩu nặng nghĩa nhân

Là một người xa xứ, Phạm Trung Tín thường có những giây phút hoài niệm về quê hương, nguồn cội, người thân và bạn bè của mình. Thơ ca chính là người bạn tâm giao, là phương tiện kì diệu kí thác nỗi niềm trắc ẩn rất đáng trân trọng ấy. Nói như nhà thơ Trần Mai Hường “Người ta thường nói rằng, khi qua con dốc cuộc đời, con người có thói quen sống cho kỉ niệm. Với người bình thường như chúng ta, chuyến về miền hoa mộng khó tránh được nuối tiếc những tươi đẹp mà mình đã đi qua. Còn với thi nhân, chạm vào dĩ vãng cũng là lúc trái tim cất lời, để ngày hôm qua lưu dấu trong hiện tại, để lời riêng kết nối, đồng vọng với tình chung”.

Là một cử nhân triết học, Phạm Trung Tín thường suy tư về thời cuộc, đặc biệt trắc ẩn trước những số phận mong manh, ngắn ngủi và nghiệt ngã của đời người. Nói như Tố Hữu: “Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình”. Chất trữ tình làm nên hồn cốt trong thơ Phạm Trung Tín khúc xạ từ lối sống giản dị, giàu nhân nghĩa, luôn quan tâm, chia sẻ đến người khác của anh. Đối diện chính mình dành một lượng lớn thơ ca bày tỏ tình cảm tiếc thương, xa xót trước sự ra đi của người thân, bè bạn và tha nhân như “Tiễn biệt một người thơ”, “Vĩnh biệt tri kỉ tri âm”, “Khóc bạn cố tri”, “Kính viếng hương hồn Đại huynh Nguyễn Cẩn”, “Tiễn biệt lão đại nhân”, “Tiễn thi sĩ Đông Nguyên nơi an nghỉ vĩnh hằng”, “Người tập hợp những tài hoa”… Tuy nhiên, nhà thơ đã sử dụng những ẩn dụ và ngôn từ giàu thi ảnh khiến lời thơ thấm thía, nhẹ nhàng mà không quá bi lụy. Khi viết về một người chị mắc bệnh cơ hàn phải rời xa cõi tạm, nhà thơ nghẹn ngào: Chị ơi nắng cũng ngừng rơi/ Ba hồi trống/ tiễn người rời trần gian (…) Buồn thương/ hoa lệ nghẹn lời / Cốt lưu sơn tự/ trăng bơi giữa dòng (Khóc chị). Vẫn biết trần gian là cõi tạm/ Đời người bóng nắng hắt qua song/ Xót xa thương tiếc chùng tâm khảm/ Thôi chẳng lần sau tắm một dòng (Tiễn thi sĩ Đông Nguyên nơi an nghỉ vĩnh hằng). Trong dịp về quê hương thi nhân Nguyễn Bính, trước ngôi mộ đơn sơ, lạnh vắng, thắp nén nhang thơm tưởng niệm tiền nhân mà lòng bùi ngùi cảm khái. Tấm tình ấy được nhà thơ diễn tả bằng những câu lục bát thật đẹp:

Vít cong nhang khói nửa chừng

Ngọc lan im lá, lộc vừng nghẹn hoa

Chị đau khổ trước sân nhà

Còn em chạnh nỗi xót xa tận lời

Câu thơ góc bể chân trời

Hồi hương cô quạnh nghẹn lời thế nhân (Viếng mộ Nguyễn Bính thi nhân)

Với người vợ đầu gối tay ấp đã khuất, người thơ đã dùng cách viết giản dị nhưng chất chứa tình cảm sâu đậm pha lẫn sự nuối tiếc, xót xa của tình nghĩa phu thê: Thanh minh thăm mộ vợ hiền/Mưa đêm qua có lạnh phiền mình không?/ Lặng buồn cõi biệt mênh mông/Vùi sâu cốt lạnh phiêu bồng hồn ma (Thăm mộ hiền thê). Với đồng đội, những người lính từng là bạn đồng niên, cùng chung chí hướng, tâm nguyện lên đường cứu nước, tác giả chọn cách trò chuyện tâm giao mộc mạc: Đồng niên: thầy - bạn, lớp - trường/ “Hàn sinh” hun đúc cương cường chí trai/ Bóng hồng e ấp mắt nai.../Bút nghiên bỏ, súng nặng vai... lên đường/ Bước quân reo lính chiến trường/ Đạn bom mù mịt - máu xương tơi bời/ Tử sinh nghĩa khí phùng thời / Câu thơ hội ngộ dưới trời miền Đông (Khóc bạn cố tri).

Hình ảnh người mẹ lam lũ, tảo tần, giàu đức hi sinh được nhà thơ nhắc đến trong nhiều trạng thái cảm xúc. Đó là niềm vui vỡ òa ấm áp của niềm vui đoàn tụ: Cháu con quấn quýt bên bà/ Bữa trưa muộn, rộn tiếng gà gáy vang/ Xôn xao ngõ xóm chợ làng/ Đoàn viên tứ đại- xênh xang nói cười (Mẹ và niềm vui đoàn tụ), là cảm giác bé bỏng trong tình yêu vô bờ của mẹ: Năm mươi năm bạt phiêu/ Cánh chim bay chân trời góc bể/ Tuổi chín lăm mẹ cuối chiều bóng xế/ Tôi chưa hẳn lớn khôn/ Trong ánh mắt mẹ già (Mẹ và các con trai). Chỉ bằng bốn dòng lục bát, nhà thơ đã tái hiện trước mắt người đọc hình ảnh đôi bàn tay gầy guộc nhăn nheo- dấu ấn của tuổi tác và cuộc đời nghèo khổ, lam lũ của mẹ: Ngón gầy gân guốc nhăn nheo/ Đồng sâu ruộng cạn đói nghèo trả vay/ Trời thương con được cầm tay/ Để xoa dịu bớt đắng cay phận người (Cắt móng tay cho mẹ). Vẻ đẹp phẩm hạnh của mẹ được nhà thơ tôn vinh bằng hình ảnh hoa sen cao khiết. Loài sen là quốc hoa của dân tộc Việt Nam- một thi liệu quen thuộc trong thơ ca truyền thống được Phạm Trung Tín sử dụng vẫn mang nét riêng thơ anh. Dẫu tuổi cao sức yếu, mẹ vẫn chắt chiu nhặt nhiệm, rút ruột tằm nhả tơ, dạy các con lối sống nhân nghĩa:

Như loài sen dẫu hoa tàn

Củ còn nuôi ngó đông hàn ủ xanh

Hè sang bừng sắc lá xanh

Hoa thơm đơm nhụy trong lành nghĩa ân. (Mẹ tôi lão Phật gia)

Được biết Phạm Trung Tín còn đảm nhiệm công việc xã hội với cương vị của một bí thư chi bộ nhiều năm của một khu phố hơn 4.000 dân, được mọi người yêu quý và tín nhiệm. Thơ ca dù có lãng mạn, sải cánh bay cao trên bầu trời nghệ thuật vẫn có một sợi dây nối liền mặt đất. Hiện thực đời sống đương đại với những khúc quanh và ngã rẽ đi vào thơ Phạm Trung Tín bình dị và ắp đầy như từng hơi thở. Trước trận cuồng phong số 9 ở miền Trung, lời thơ lo lắng đến quặn thắt: Bão chồng lên bão nỗi đau/ Thiên tai dồn dập nát nhàu miền Trung/ Gió lùa mây phủ bịt bùng/ Tang thương dâu bể vô cùng đớn đau (Miền Trung giông bão). Đồng cảm với những nhọc nhằn của người phụ nữ làm muối ở Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, TP. HCM, nhà thơ chia sẻ: Hạt muối đa đoan, long đong chìm nổi/ Đời diêm dân nhỏ nhoi cơ hội/ Bán lưng cho trời, muối bạc trắng hơn vôi/ Bán mặt cho đất lưng ướt đẫm mồ hôi (Nói chuyện với người đàn bà làm muối). Trong đại dịch Covid 19 kinh hoàng năm 2021, bên cạnh những hoạt động thiện nguyện của bản thân và Hội Nhà văn TP. HCM, nhà thơ gửi gắm vào thơ những lo lắng, thương cảm đau đáu của mình:

Giặc thinh lặng hủy hoại đời

Ngàn sinh mệnh bóng ma trơi thình lình

Vô tang vô tưởng vô tình

Tâm hương thắp nghẹn- cốt bình nhói tim (Phận người trong tâm dịch)

2. Đối diện chính mình- một hồn thơ lãng mạn gắn với sứ mệnh văn chương

Cảm xúc lãng mạn, thăng hoa chính là yếu tố quan trọng để người thơ chắp cánh cho nghệ thuật. Thơ ca có lúc là lời độc thoại, có lúc là tiếng hát ngập tràn của trái tim. Đó cũng chính là lúc người nghệ sĩ chưng cất thơ ca bằng ngôn từ rất riêng của mình. Nhà thơ đã dành cho người vợ sau, hiền thê Nguyễn Thị Huệ những vần thơ thật đẹp về tình yêu và hàm chứa cả sự biết ơn: Nắng cong bông lúa rưng rưng/ Mặn mòi gió biển nuôi rừng mãi xanh/ Đã yêu sương giọt đầu cành/ Càng thương nắng ấm đã dành cho nhau (Tặng vợ hiền Nguyễn Thị Huệ); Thiện tâm kết nối nhịp yêu thương/ Nuôi con, chăm mẹ - nhịn nhường/ Tiếng thơ chồng - ủ sắc hương đất trời/Cánh buồm căng gió xa khơi/ Ngọn nguồn hạnh phúc mỗi lời sẻ chia (Ngọn nguồn hạnh phúc).

Trong tập Đối diện chính mình, có lúc bạn đọc bắt gặp một số bài thơ lãng mạn, ngọt ngào về cảnh sắc thiên nhiên gắn với tình yêu đôi lứa. Đó là một khung cảnh Đà Lạt đẹp như huyền thoại: Dã quỳ xanh nụ rêu phong/ Mưa giăng mắc lạnh cánh diều thảo nguyên/ Chìm sâu kí ức ưu phiền/ Mùi hương tóc quyện rối triền nhớ nhung (Hồi tưởng). Bắt gặp hình ảnh của người thiếu phụ nơi phố núi, người thơ tự giăng mắc một tấm tình: Chợt thiếu phụ bừng lên chiều phố núi/ Bồng bềnh mây hương sắc đoan trang/Nắng mê hoặc gió chừng như bối rối/ Cỏ mềm quấn quýt bước lang thang/ Người thơ đón Nguyên tiêu sơn cước / Lau trắng đường lạnh ướp sương êm (Tình phố núi). Đó là giây phúc cùng trăng độc ẩm: Tay cầm ly rượu nhẹ tênh/ Giật mình đáy cốc lênh đênh phận người/ Xa xôi trăng cũng như cười/ Cùng ta tròn- khuyết, chín- mười tỉnh say (Uống rượu cùng trăng). Đó là kỉ niệm lãng mạn của một người lính trở về Sài thành trong một buổi sáng mưa bay:

Một sáng mưa, gác hẻm nhỏ Sài Gòn

Bốn lăm năm nụ hôn dường ngây ngất

Lính biên cương quý hơn vàng kỳ phép

Long ngóng vụng về khuy áo khép ngực em. (Nụ hôn ngày ấy)

Ký ức rưng thơm về quê hương được kí thác vào thơ bằng những hình ảnh chấm phá của cỏ may, bến sông, mây, gió, trăng gầy… Thiên nhiên quen thuộc của làng quê ven sông sẽ trở nên vô hồn nêu không được nhà thơ phả vào nỗi niềm nhung nhớ của người con xa xứ:

Bước chân ai níu cỏ may

Chiều quê in bóng trăng gầy bến sông.

Mây chùng chình nỗi chờ mong

Gió lang thang giận sóng không vỗ bờ

Chao nghiêng ký ức thực mơ

Gọi tên bến cũ lòng ngơ ngác chiều (Chạm vào nỗi nhớ)

Đọc Đối diện chính mình của Phạm Trung Tín, bên cạnh sự trung hậu của tấm lòng, tôi thích cái chất mộc mạc, bình dị của ngôn từ và những hình ảnh so sánh, ẩn dụ tinh tế của anh qua thể thơ lục bát truyền thống uyển chuyển: Chỉ e phố núi tùy duyên mỏng (Tình phố núi); Lưng cong trĩu bóng mẹ hiền/ Vai chiều thêm nặng gánh phiền xa xăm (Mũi vắc xin ngày Vu Lan); Con sẽ bay lên từ đôi vai cha mẹ (Tặng con trai yêu quý); Nắng mê hoặc gió chừng như bối rối/ Cỏ mềm quấn quýt bước lang thang (Tình phố núi);  Hạt muối tinh khôi như hoa tuyết (Nói chuyện với người đàn bà làm muối); Củ còn nuôi ngó đông hàn ủ xanh (Mẹ tôi lão Phật gia); Vít cong nhang khói nửa chừng/ Ngọc lan im lá, lộc vừng nghẹn hoa (Viếng mộ Nguyễn Bính thi nhân)… Nói như Nguyễn Cư Trinh: “Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ có tỏ, rộng hẹp khác nhau. Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị”.

Xuân Diệu từng viết: “Ngôn từ, lời chữ, vần rất là quan trọng, bởi thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là cái quan trọng thứ hai. Mà cái quan trọng thứ nhất làm rường cột cho tất cả là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài. Làm thơ khó nhất là tìm tứ”. Trong tập thơ này, có thể Phạm Trung Tín chưa có nhiều câu thơ cách tân theo lối hiện đại nhưng chất trữ tình đậm đặc làm nên hồn cốt của thơ ca luôn tuôn chảy và ắp đầy, khá nhiều bài thơ đã xây dựng được tứ riêng, không trộn lẫn. Dù cuộc đời có những thăng trầm, mất mát nhưng người thơ Phạm Trung Tín vẫn cần mẫn cày xới trên cánh đồng chữ nghĩa, nâng niu từng lát cắt cảm xúc để gieo trồng những áng thơ ca đích thực, đóng góp cho nghệ thuật.  Xin chúc mừng Đối diện chính mình của Phạm Trung Tín và chờ đợi tập thơ tiếp theo của anh.

TP. Hồ Chí Minh, 20/5/2023
TKL.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm