TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Thi pháp trữ tình triết học lập ngôn trong trường ca Phồn sinh của Nguyễn Linh Khiếu

Thi pháp trữ tình triết học lập ngôn trong trường ca Phồn sinh của Nguyễn Linh Khiếu

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-28 16:54:45
mail facebook google pos stwis
1754 lượt xem

Bùi Văn Kha

Văn học phương Tây hiện đại có dạng thơ văn xuôi gọi là trường ca, hay là thơ văn xuôi đều được. Như F. Ra bơ le viết Gargantua và Pantaguel thế kỷ XVI bị nhà thờ quan phương coi là tác phẩm dị giáo, phản đối Giáo hội và Đức tin Cơ đốc giáo hiện hữu. Nên nhớ đây là thời kỳ của Ga li lê, của thần quyền thống trị nhà nước, đức tin và xã hội.

   Nguyễn Linh Khiếu và tập Phồn Sinh

      Hay Lời dâng của R. Ta gor gồm 103 khúc thơ văn xuôi đoạt giải Nobel văn học. Thơ ông là tiếng nói của tinh thần dân tộc và dân chủ sâu sắc, của tinh thần nhân văn cao cả và tính chất trữ tình triết lý nồng đượm. Tác phẩm của ông đậm chủ nghĩa tự nhiên và những chiêm nghiệm không tự nhiên, nhất là khi đọc tập Mây và mặt trời thì xếp vào loại truyện thơ văn xuôi cũng được.

         Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, thơ nhập cuộc không chỉ “Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ/ Hơn nghìn trang giấy luận văn chương” (Tố Hữu), mà còn “Không có sách chúng tôi làm ra sách/ Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình” (Hữu Thỉnh). Có thể dẫn rất nhiều ở trường ca của Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh những năm chiến tranh, của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, và cả Thanh Thảo nữa thời hậu chiến tranh, những năm trước và sau Đổi mới 1986, và thời kỳ Đổi mới.

         Kể từ năm 2000 trở đi, tình thế và thực tại Việt Nam đã khác trước nhiều. Các nhà thơ có nhiều bối cảnh  để cảm hứng. Có thể cái bi hài của giai đoạn chuyển tiếp đã không còn trọng tâm nữa. Dẫn lời nhà thơ Thanh Thảo: “Những tráng ca thuở trước/ Còn hát trong sách thôi/ Những thanh gươm yên ngựa/ Giờ đã cũ mèm rồi/ Bài ca của chúng tôi/ Là bài ca ống cóng/ Hành trang Quân Giải phóng/ Đơn giản nhất trên đời”.” (bài này viết bắt đầu giai đoạn ba của thơ ca chống Mỹ, khoảng 1972 – 1976, mặc dù kết thúc chiến tranh năm 1975, nhưng do nhiều sáng tác trước 1975 mãi đến năm 1976 mới công bố được!).

         Sang giai đoạn đã khác hơn, chuyển đổi nhiều về nội dung, thơ cần phải hướng tới luận thuyết. Nguyến Linh Khiếu hướng chính của mình vào vấn đề này. Ông bắt tay vào viết Phồn Sinh từ năm 2002 đến năm 2014. Tác phẩm được xuất bản vào năm 2018.

         Nguyễn Linh Khiếu xuất hiện với tư cách nhà thơ và nhà triết học khoảng cuối thế kỷ 20. Sang đầu thế kỷ 21, ở ông, thơ và triết học đã vững vàng lắm rồi. Vậy nên, khi ông viết Phồn Sinh, ông đã có cho mình một định hướng thi pháp. Ta hãy bắt đầu trong Phồn Sinh để lật tìm thi pháp đó.

         Tổng quan của Nguyễn Linh Khiếu trong Phồn Sinh là thi pháp TRỮ TÌNH TRIẾT HỌC LẬP NGÔN! Là nhà thơ và là nhà triết học, ông không thể không sáng tác vừa bằng cảm xúc tình cảm, vừa bằng lý trí thức tuệ. Ông tuyên ngôn cho sự sống ở vùng châu thổ sông Hồng, cái nôi của văn hóa Việt. Nhưng ông không xét đến cái tận cùng hóa học của nó như các nhà triết học tự nhiên. Ông cảm nó vào bộ óc mình để dùng ngôn ngữ trái tim bật ra câu chữ. Câu thơ vì vậy sinh động như một tồn tại kinh nghiệm tự ý thức.

         “ta là nhà thơ của thời đại mình.

Thời đại rực rỡ huy hoàng thời đại chói sáng thời đại vinh quang thời đại sáng ngời đạo đức thời đại văn minh thời đại trí tuệ thời đại văn hóa thời đại tân tiến thời đại của những cuộc đảo lộn lật ngược khủng khiếp bãi biển nương dâu thời đại một ngày bằng hai mươi năm thời đại bất minh… thời đại của những cuộc cách mạng long trời lở đất thời đại của những cuộc cách mạng sắc màu thời đại của những cuộc cách mạng nhưng lụa… những từ điển đẫn máu những thi ca đẫm máu những âm nhạc đẫm máu những hội họa đẫm máu… những ngôn ngữ đẫm máu những… đẫm máu… đẫm máu… đẫm máu.”.

         Thế là hỗn loạn bắt đầu. Sự hỗn độn ấy là cách đặt vấn đề của tư tưởng. Nguyễn Linh Khiếu tiếp tục tư tưởng Đông phương vẽ lại trong tư duy dồn ra cảm xúc ngôn ngữ bức tranh của thời đại mình. (nhân đây tôi cũng phải nói rằng trường ca này vừa thâm sâu vừa đơn giản. vừa suy ngẫm vừa dễ đọc, tùy đối tượng, tùy lúc…).

         Cho nên “ta là triết gia của sự biến đổi

Biến đổi từ con vật thành con người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản từ nến văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp… từ quan hệ vợ chồng sang quan hệ không vợ không chồng… từ quan hệ con người với con người sang quan hệ không phải con người với con người…

Chỉ có ta là nhà thơ của thời kỳ biến đổi tình yêu biến đổi hận thù biến đổi tình thương biến đổi… phồn sinh biến đổi hiếu sát biến đổi… anh hùng biến đổi thi sĩ biến đổi mong manh biến đổi bất hủ biến đổi giây lát biến đổi vĩnh hằng”.

         Giờ ta thấy thơ và phồn sinh xuất hiện. Đây là lúc Nguyến Linh Khiếu quyết liệt tận cùng về phương pháp luận, nghĩa là triệt để cực hạn để bắt đầu bước vào thế giới của mình. Ông triết học để dựng một phủ định khái niệm khi ông tuyên bố ta là triết gia…Ông lập ngôn bằng vai trò nhà thơ của thời kỳ biến đổi. Đến đây, ông bắt đầu Hạ Thương Chu bằng Dịch, nhưng không phải từ Hà đồ Lạc thư, có lẽ là Thái cực của tam đoạn luận triết học Hegel. Là tôi đoán vậy thôi, chứ tôi vẫn nghĩ nghệ thuật vị nghệ thuật đạt đến đỉnh cao là nhân sinh. Nghệ thuật vị nhân sinh đạt đến đỉnh cao của nhân sinh là chính trị. Khúc hai và khúc ba của Phồn Sinh đã thể hiện điều đó. Giải quyết những đỉnh cao này thế nào. Ta chuyển sang khúc bốn.

         Ta xem ông bắt đầu thế giới của mình như thế nào?

 “ngụp lặn và đồng hành trong thời đại mình

Như muôn người ta là một đứa con đích thực

…như muôn người ta là một khuôn mặt một hình hài một chân dung một nhân cách…

chẳng có ai sống ngoài thời đại mình

chẳng thời đại nào tồn tại ngoài những con người đang sống…

những gì của con người đều thuộc về ta

những gì của ta đều thuộc về con người…

khi ta yêu nghĩa là ta đang sống

khi ta ghét nghĩa là ta đang yêu

khi ta ham muốn nghĩa là ta khởi một hành trình…”.

         Nguyễn Linh Khiếu mời ta theo ông để ta thấy con người của thực tại. Ông không nói rõ khoảng lịch sử nào, nhưng ông khẳng định đó là thời đại của ông. Ông bơi trong dòng sông thời đại ấy. Còn cái đã qua ông không nhắc lại. Trong tư duy ông vẽ ra thời đại theo ông là thời bây giờ, nhưng ông không chôn nó đi, mà bơi trong nó. Trước hết, như vậy là ông chấp nhận những bi hài, chứ không tiễn đưa cái bi bằng cái hài. Ông dùng tính phản tư lưỡng cực để phản phác quy chân. Ông đẩy hết độ biên của tư tưởng để trở về với:

“ta là vô vàn thế giới

Là hạt bụi lơ lửng trong vắt giữa trời trong

…là giọt nước xao xuyến đầm đìa mái tóc ai óng ả mượt mà

Là tia nắng mặt trời tươi ngời hồng rực nồng nàn sinh khí thấm nhuồn dòng máu đỏ của ai mỗi ban mai tinh khiết…”. Cũng là trở về với cái đẹp của trinh tuyết. Như vậy là Chân của nghệ thuật rồi.

         Cái Chân của Phồn Sinh là cái Chân trong tư duy. Tư duy này, nói theo triết học, là cái vật chất được đưa vào trong đầu và cải biến đi trong đó. Cho nên, Nguyễn Linh Khiếu đang nói về thời đại mình, một thời đại hỗn loạn. Từ cái hỗn loạn ấy ngoài hiện thực chuyển thành cái hỗn độn trong tư duy, để mà tư tưởng, Tây Tàu tôi không biết, ở Việt Nam hiện nay, duy nhất chỉ có Nguyễn Linh Khiếu!

         Xin được trình bày giọng điệu của Phồn Sinh.

         Phồn Sinh là thơ văn xuôi, phảng phất thể phú, cáo. Nhưng mà là phú cáo của Nguyễn Linh Khiếu dù tôi đồ rằng Nguyễn Linh Khiếu thuộc Bạch Đằng Giang Phú và Bình Ngô Đại Cáo từ rất lâu rồi, có khi còn được mẹ và bà ngâm ru ấy chứ. (Quê tôi ở Thái Bình. Bà tôi một chữ cắn làm đôi không biết, nhưng thuộc làu Truyện Kiều, Phạm Tải Ngọc Hoa, Rắn báo oán, hay Đức Thánh Trần,…Bà hay ngâm ru, kể chuyện đêm khuya trong chiếc ổ rơm khi đêm đông giá rét.).

         Cái thực của phú, cái hiện của cáo được Nguyễn Linh Khiếu đẩy lên một tư thế mới. Nội dung phú cáo ngày xưa thuộc dạng tụng ca. Giờ trong Phồn Sinh thể hiện ra là các mệnh đề. Nhìn Phồn Sinh tưởng không theo cú pháp hiện tại. Thực ra Phồn Sinh chấm phẩy theo hơi thở. Nó đầy dấu phẩy, dấu chấm, ngắt dòng. Chỉ là Nguyễn Linh Khiếu giản lược hình thức cho cái bên ngoài không hoa mắt. Bạn cứ tưởng tượng trong một khúc thơ dài như thế mà cứ ngắt, cứ viết hoa thì khúc thơ thành ma trận, cho nên tôi bảo đọc thơ Phồn Sinh ta cứ như xem tranh nuy, trực tiếp, đơn giản mà tâm hưởng.

         Tôi cho cái liên vần liên ý trong Phồn Sinh có sử dụng Tân hình thức. Nhưng Tân hình thức ở đây là sự phát triển độ rộng của ý và độ dài của tư duy. Tưởng như nhà thơ muốn cái gì cũng ôm vào mình nhưng không phải. Ông muốn tận dụng phép biện chứng của tâm hồn để đẩy cảm xúc lên đỉnh sin. Phồn Sinh không lơ lửng, nửa chừng, hoa trong gương, trăng trong nước. Phồn Sinh phải “Trăm năm tính cuộc vuông tròn/ Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” (Nguyễn Du). Nguyễn Linh Khiếu, trong chừng mực nào đó, cũng dùng một chút Hậu hiện đại khi ông phủ định và khẳng định lưỡng cực nội dung. Là người đọc rộng biết nhiều Tây Tàu đi khắp, chuyện ảnh hưởng vào bút pháp là lẽ đương nhiên. Vấn đề là các mệnh đề triết học mà Nguyễn Linh Khiếu đưa vào từng câu thơ đều chuẩn và đẹp, “đến từng xăng ti mét”!

         Mỹ học trong Phồn Sinh quả thực là bức tranh bài ca sự sống, là thế giới sự sống phồn thực và ảo mộng vùng châu thổ sông Hồng.

“hơn tất cả ta là con trai của châu thổ sông Hồng cồn cào rạo rực giàn dụa phù sa

châu thổ sông Hồng xứ sở quanh năm suốt tháng tưng bừng những mùa động đực…

châu thổ cái nôi của văn minh sông hồ dầm dề ướt át lướt mướt

châu thổ cái nôi của văn minh lúa nước nôn nao sai cành trĩu mẩy

châu thổ cái nôi của sinh sôi nảy nở cương cứng lồ lộ

châu thổ cái nôi của dồi dào chộn rộn xôn xao tưng bừng thống thiết

châu thổ âm vang tinh thần phồn sinh tràn trề chan chứa đầm đìa tràn ngập thấm thía linh thiêng…”.

         Dừng một chút để nói về cách tu từ của Phồn Sinh. Thơ là phải tu từ, phải “thôi xao”. Nguyễn Linh Khiếu tung hoành như một vị tướng khi sử dụng đội quân tính từ. Có thể nói các loại tính từ  tràn ngập trong Phồn Sinh làm tràn ngập màu sắc, phẩm chất, tính tình, thuộc tính. Mà dùng rất đắt. Mà đâu vào đấy. Đây cũng là mặt mạnh về mỹ học trong Phồn Sinh.

         Nhân vật trong Phồn Sinh là cả một quốc gia Phồn Sinh. Ngoài nhân vật Ta đại diện chủ thể ra, thì cái gì cũng là nhân vật trữ tình. Từ đất đai, sông hồ, biển khơi, bờ bãi cánh đồng , đến cây cối, hoa màu,… đều có hồn, có linh, có tình , có cảm, như người, cá tôm, như vật nuôi, như chim trời, cá nước. trong không gian châu thổ, như:

 “thế gian này mỡ màu là giống cái

Thế gian này mỡ màu là mẹ

Thế giới này tuôn chảy dạt dào dòng mẫu hệ linh văn

Mỡ màu dung dưỡng muôn loài sinh sôi nảy nở

Mỡ màu là sự sống

Mỡ màu là tình yêu

Mỡ màu nghĩa là thiên mệnh…”.

         Bây giờ ta xem đến một phần rất quan trọng của Phồn Sinh. Đó là các mệnh đề được đưa ra.

         Đầu tiên là Tự do (hiếm thấy nhà thơ viết hoa, trừ Sông Hồng, Linh, Tự do và vài từ khác. Linh là kết tinh của tinh thần, của linh hồn và một miền ngoài nào đó, giống cái, là người yêu của nhà thơ, nhưng Linh phải ở sông Hồng, là chủ thể tôn giáo sinh ra từ đất mẹ, đất mẹ Sông Hồng. Chủ ý thật tuyệt!).

“trên xứ sở châu thổ Sông Hồng của ta tinh thần Tự do vô cùng kỳ vĩ

bản chất xứ sở châu tổ Sông Hồng là xứ sở tự do

xứ sở này tự do không gì sánh nổi….

xứ sở này tự do là máu là xương là da là thịt là lông là tóc…là tinh hoàn là buồng trứng là nụ cười là tiếng khóc là mồ hôi là nước mắt

xứ sở này đã ngàn năm tối tăm phương Bắc đô hộ

xứ sở này đã trăm năm nô lệ thực dân phương Tây mắt xanh mũi lõ…

nếu không có một sức sống phi thường

nếu không có một tình yêu vĩ đại

đất nước này đã ngàn lần thay tên đổi chủ

dân tộc này đã ngàn lần bị đồng hóa lai tạo bị diệt chủng…”.

         Ở khúc hai và khúc ba là trình bày lý do ra đời của Phồn Sinh. Các đấng sáng tạo ra đời đều từ Hỗn Độn để cứu thế. Trong thế giới Phồn Sinh, Ta (chủ thể đại diện – nhà thơ chính là người sáng tạo!). Từ khúc mười, Phồn Sinh lại là tự sự sử thi. Nhà thơ bám theo chủ đề nhưng lại nêu những lịch sử đã diễn ra ở đất nước Việt Nam. Có thể nói từ đây, Phồn Sinh tựa vào lịch sử để mà trừu tượng, để mà cảm xúc, để mà triết luận.

         Mệnh đề thứ hai là Dân chủ. Khúc mười ba.

“trên xứ sở châu thổ Sông Hồng thiêng liêng của ta dạt dào không khí Dân chủ

dân chủ là hồn vía của muôn loài

dân chủ là sức sống của vạn vật

dân chủ là tinh thần của xứ sở…”

         Mệnh đề thứ ba là Sự Thật. Khúc thứ mười lăm.

“trên xứ sở châu thổ Sông Hồng của ta không gì cao hơn Sự Thật

Trên xứ sở châu thổ Sông Hồng của ta không có gì sâu hơn sự thật

Trên xứ sở Sông Hồng của ta không có gì rộng lớn hơn sự thật…”

Mệnh đề thứ tư là Giải Phóng. Khúc thứ mười bảy.

“trên xứ sở châu thổ Sông Hồng của ta sục sôi tinh thần Giải Phóng

Giải phóng là bản năng

Giải phóng là lẽ sống…

khi nhà thơ chưa hát được bài ca của mình

nhà thơ đanh bị gông cùm giam cầm trong tù ngục

khi nhà thơ chưa hát được bài ca của mình

cả dân tộc đang rên xiết trong xà lim giam hãm

khi nhà thơ chưa hát được bài ca của mình

cả dân tộc nhẫn nhục quằn quại chờ phút giây vùng lên đồng khởi”.

         Đọc đoạn này sao tôi liên tưởng đến Bài ca chim báo bão của Mác xim Gooc ki quá, nhất là nhớ đến câu “Vinh quang thay sự điên cuồng của những người dũng cảm”.

Bắt đầu từ khúc hai hai, nhà thơ trở về khúc một để lý giải ngữ và nghĩa, bắt đầu cuộc dạo chơi trong các khái niệm. Sau đó, nhà thơ phân thân ra mười hai con giáp TÝ SỬU DẦN MÃO THÌN TỴ NGỌ MÙI THÂN DẬU TUẤT HỢI,

Lại hóa thân vào các con vật , con bay trên trời, con trên mặt đất, con ở trong đất, con ở dưới nước, giống đực, giống cái, vv…

Chính trị lớn nhất là cái Thiện. Sự phân thân, hóa thân của nhà thơ trong Phồn Sinh chính là sự khẳng định sự sống, là cái Thiện được Linh hóa, nói cách khác, cái Thiện đối với Nguyễn Linh Khiếu là linh hồn vật hóa cùng tồn tại. Tồn tại, vì vậy là chính trị cao nhất. Sự lý giải ấy chỉ thơ mới có.

Khúc bảy mốt:

“ta là giáo chủ của phồn sinh giáo

tôn giáo cổ xưa nhất trong các tôn giáo

tôn giáo hiện đại nhất trong các tôn giáo…

đó là tôn giáo được đức linh cao cả sáng tạo đầu tiên trước khi sáng tạo vũ trụ

ta truyền giảng những lời kinh khởi thủy

ta truyền giảng những lời kinh sáng thế…

bất cứ cái gì sinh sôi nảy nở đâm chồi nảy lộc nở hoa kết trái thụ phấn thụ thai giao hợp chửa đẻ sinh sản tốt tươi héo khô tàn lụi đều thuộc tôn giáo phồn sinh

tất cả những gì sinh diệt đều là tín đồ phồn sinh giáo…”.

Tôi đọc đến khúc một trăm năm mươi của Phồn Sinh, cũng thấy bình thản đón nhận một quan niệm nhân sinh. Tôi khẳng định Nguyễn Linh Khiếu không khó đọc. Chỉ là những chấp niệm trong lòng có đồng cảm với Phồn Sinh.

Thi pháp trữ tình triết học lập ngôn là chủ đạo trong Phồn Sinh. Nhưng trong Phồn Sinh có cả phép hiện thực, cả lãng mạn, cả tự sự, cả trữ tình…  Với tôi, đây là cách tiếp cận Phồn Sinh, cũng là cách tôi hiểu Nguyễn Linh Khiếu trên bình diện tư tưởng. Theo tôi, đây cũng là sự đóng góp lớn nhất của Nguyễn Linh Khiếu với thi ca Việt Nam 20 năm đầu thế kỷ XXI.

Tôn giáo phồn sinh của Nguyễn Linh Khiếu, xét đến cùng là cảm xúc nhân linh. Thơ ông tôn vinh tinh thần, nhưng tinh thần ấy được vật thể hóa. Muôn loài vật sống ấy có thể là bất cứ cái gì trong không gian của ông. Trong không gian ấy, đến đất, nước, lửa, gió, lôi, mây, cây, khoáng chất đều sống, đều có linh như con người, như sinh vật. Hiểu được điều ấy rồi, ta càng tôn trọng cách lập thuyết của ông. Nguyễn Linh Khiếu đã luyện ngục trăm lần để giúp chúng ta đến xứ sở của châu thổ Sông Hồng của ông, để cùng Phồn Sinh tôn trọng sự sống, tự do, dân chủ, sự thật, giải phóng, để mà hòa vào muôn loài đực cái vào mùa động đực mà sung sướng giao hoan những gì bản thể nhất.

Hà Nội, mùa Thu năm 2023.

B.V.K

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm