TIN TỨC

Có một buổi chiều như thế!

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-11 20:29:13
mail facebook google pos stwis
1493 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Đọc bài thơ “Thơ viết chiều cuối năm” của tác giả Ngô Minh Oanh)

Tôi đã “vô tình” mà “hữu ý” vươn tay hái ngắt một “chiếc lá cuối cùng không rụng bao giờ” có in hình đong dáng một bài thơ “xinh” mang tên: Thơ viết chiều cuối năm. Lâu lắm rồi mới nhặt được “chiếc lá” ẩn ứa đầy những “niệm” thời gian, hao mòn, nỗi nhớ, mưa sương, vết cắt cứa đời/ người với kiểu tự sự kết hợp trữ tình tạo cảm giác “nhu mềm” không “chói gắt” cho tâm hồn cộng hưởng/ cảm thụ như thế.

Tất cả thật “trữ tình”. Những rung cảm nhẹ nhàng, buổi chiều cuối năm vương vấn trên mái đầu, bờ vai đã phủ bóng thời gian/ chiều của đời người chăng? Một buổi chiều có nhớ, có xưa cũ, có chiêm ngắm rồi tiếc xót nhưng tất cả đều diễn tiến với điệu hồn nhẹ nhàng, đong đầy những lời cảm ơn, tạ từ.

Chủ thể cảm xúc xây dựng một không gian tâm tưởng “rất chiều”. Bước chân trải lặng ngược “thế lộ”, đi về phía “hoàng hôn”. Hành trình sắp đóng lại, tròn trịa và nhiều được/ mất…

Một hình ảnh đủ- đầy, là “nhãn tự” của khổ thơ: “dáng ta nghiêng”. Đó chăng là cái “cúi đầu” chiêm ngắm thế sự, nghiệm gió bụi hay là “tuổi tác” đã khiến ta gần đất hơn…Hiểu thế nào cũng ra cái nhận thức về nhân sinh: Vô thường.

Chiều cuối năm hun hút gió công viên

Con đường nhỏ đưa chân về lối cũ

Nơi mỗi chiều qua giữa đôi hàng liễu rũ

Bóng liễu nghiêng hay dáng ta nghiêng.

Câu thơ mở đầu đặt để giữa dòng từ tượng hình “hun hút” đã mở ra một không gian rất chiều, cực chiều và “siêu chiều”. Ta thấy thực sự đó là một chiều cuối năm và cũng là chiều năm cuối cùng… Mở ra nhiều chiều cảm/ hiểu. Chiều sâu: sâu tận ngày, tận đời, tận những bài học vỡ vạc...; chiều rộng: rộng của nỗi lòng mênh mang, rộng dài miền kí ức, sự kết nối miên viễn giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Và chiều dài của những lối/ đường đã đi, những trải nghiệm nhân sinh, những cuộc “thập trải phong trần”, đường đời gian truân… Không gian ngoại cảnh và không gian tâm tưởng đan cài, lồng ghép tạo nên một bức tranh chiều “u nhã”.

Cây ngút xanh chiều ráng lung liêng

Hồ soi bóng giật mình tóc điểm bạc,

Qua rồi chăng một thời khao khát

Ôm trọn đất, trời mỗi ban mai.

Đường đưa chân về lối cũ hay chân tự tìm về? Tác giả trở nên “hoài cựu”. Cái “hoài cựu” của một con người đã thấm thía, lưu cất bao bài học thế thái nhân tình. Cho nên nay đã bước vào “con đường” trong tâm, đường tưởng nhớ về những gì đã qua. Bước chân đi trên lối “đó”, thấy quen thuộc, thấy “ngập ngừng yêu thương”. Thấy “cây ngút xanh”: Hình ảnh tái hiện thanh xuân vào buổi đẹp nhất, đậm màu nhất, nên xanh nhất nhưng “phủ liệm” “chiều ráng lung liêng” nên bất chợt “giật mình tóc điểm bạc”.

Và rồi nhà thơ nhận rõ “chân tướng” của thời điểm này, bối cảnh này: “Qua rồi…”. Câu thơ được viết dưới “hình thức” câu hỏi/ mệnh đề phủ định để “khẳng định” về sự đã mất đi, “mất mát” rồi cái thời trai trẻ mộng ước và hoài bão. Có “chút ít” đau, chút oán giận, chút tuyệt vọng. Và điểm nhìn đi từ “tiếng đàn lòng” buồn bã đến “lời cảm ơn” nhẹ nhàng, an yên với đời, với người:

Đã đi qua bao dặm đường dài

Đất lạ, xứ người từng nếm trải

Hoa đẹp cầm tay, tình người thơm thảo

Ta mang ơn đời hạnh phúc ấm vòng tay.

Giọng thơ không lưu đày, khiếp nhược, không “chán chường” cho nỗi thời gian “nhất khứ bất phục phản”. Cũng không “hô hét” đòi được một lần nữa thanh xuân. Giọng thơ với chất tự tình thấm lắng. Dùng thủ pháp “Tá khách hình chủ”: Ba câu đầu như để nâng đỡ cho câu cuối, đó là thông điệp đẹp đẽ về lẽ sống: Cảm ơn! “Ta mang ơn đời hạnh phúc ấm vòng tay”.

Tác giả nói về khoảnh khắc hạnh phúc ở đời là khoảnh khắc “những bàn tay nắm lấy những bàn tay”. Khoảnh khắc trao hơi ấm tình người. Tất nhiên! tác giả đã trải nghiệm sâu sắc cái nồng thắm trên đôi bàn tay rưng rưng vươn ra để giao hảo với đời đó. Ta dễ thấy “tấm lòng thiên hạ” nơi hồn thơ. Không khí thơ rất “thương”, rất “hiền hòa” và trong đẹp.

Đời cũng trao trên dặm dài xa ấy

Nỗi đớn đau rạn vỡ bạc vôi,

Tâm tốt nhầm nơi, tình trao lạc lối

Trắc ẩn đời người giấu vào nụ cười thôi…

Khổ tiếp theo “dặm” thêm cho hồn thơ hồn hậu chút tâm sự về được/ mất. Đôi tỏ tường cho xác đáng về “tính hai mặt” của cuộc sống và sự bất khiết, không thể tuyệt đối của vạn sự ở đời. Có sai nhầm, có bạc bẽo, có những ân hận. Nhưng sau tất cả, như một lời “biện bạch” hay “khuyên nhủ”: Hãy tha thứ bằng nụ cười cầu hòa. Nụ cười cảm thông, bao dung, lắng đọng.

Chiều cuối năm bấm bàn tay tính tuổi

Lòng rưng rưng số đốt đã nhiều,

Mình tự vấn mình, mình chợt hiểu

Còn đam mê con chữ chưa thành.

Hành động “bấm bàn tay tính tuổi” gợi một tư thái rất dân gian. Đó là “động tác” ảnh mặt phản ánh sự “nghiệm sinh” của những con người đã đi qua bao chặng đời giông bão/ đã như một “hàng cây tuổi tác”. Giờ đến độ đã “bình tĩnh”, đã lặng lẽ, đã không còn thắc mắc, mơ tưởng, đay đả đời sống nữa. Nên lúc này mới rảnh tay mà đưa lên đếm đốt.

Đưa vào thơ một ảnh tượng, một chi tiết mang tính dân gian, đời thường đã tạo ra một không gian nghệ thuật gần gũi, mộc mạc và trong bối cảnh ăm ắp cảm tình, hồn thơ đang tha thiết nhịp đập thời/ không đó có những “cử chỉ” thân thương đời thường của con người. Bỗng dưng ý thơ có màu tự sự mà vẫn rất nên thơ trữ tình. Cách diễn ngôn đó thật hay mà dụng ý nghệ thuật được hiệu quả.

Chủ thể trữ tình với hành trình cảm xúc càng đi về cuối bài thơ càng bộc lộ “cái đẹp” nơi tâm hồn. Nếu ở trên dường như đã “buông”. Thì đến lúc này hồn thơ thực lòng bộc lộ một chút gì đó của “lòng tham”: Tham sống đẹp, tham yêu cuộc sống, thơ ca và chữ nghĩa. Luôn cảm giác chưa đặng trọn vẹn, chưa thỏa đam mê.

Và rồi không thể “ngưng đọng”, phải tiếp diễn cái đẹp đã khởi sinh, tồn tại, song hành để làm đẹp, làm đầy mình. Cái đẹp lưu động chảy mãi trong huyết quản và ta phải tiếp tục hành trình của “yêu thương”.

Nhưng chỉ là “mong” chứ không có “vọng tưởng”… Chữ “mong” đặt trong tâm thế nhẹ tựa cánh hoa. Con đường đấu tranh, giành giật, con đường giằng co thiện/ ác có thể chất đứt. Nhưng riêng con đường chân lý và cái đẹp. Con đường thơ ca và chữ nghĩa thì sẽ đi đến “lộ cùng”. Đi với tâm thế “mãi miết” chứ không phải vay chút vui qua ngày. Đi để cho đời lên hương, lên thì và rồi xuân sẽ thắm lại trong từng trang, từng lời, từng nốt nhạc, vần thơ.

Lòng tự nhủ lòng như vậy, bao lần

Máu còn chảy trong tim mình thao thiết

Thì vẫn đi trên đường đời mãi miết

Mong có ngày Xuân lại nở trên tay…

Chiều cuối năm đẹp “nhã nhặn”. Rồi dòng máu tình thơ sẽ mở ra một mùa xuân. Mùa xuân nơi những tâm hồn luôn tha thiết được cho đi những ấm áp từ trái tim qua đôi tay lặng lẽ, chiêm bái cuộc đời…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm