TIN TỨC

Có một buổi chiều như thế!

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-11 20:29:13
mail facebook google pos stwis
1440 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Đọc bài thơ “Thơ viết chiều cuối năm” của tác giả Ngô Minh Oanh)

Tôi đã “vô tình” mà “hữu ý” vươn tay hái ngắt một “chiếc lá cuối cùng không rụng bao giờ” có in hình đong dáng một bài thơ “xinh” mang tên: Thơ viết chiều cuối năm. Lâu lắm rồi mới nhặt được “chiếc lá” ẩn ứa đầy những “niệm” thời gian, hao mòn, nỗi nhớ, mưa sương, vết cắt cứa đời/ người với kiểu tự sự kết hợp trữ tình tạo cảm giác “nhu mềm” không “chói gắt” cho tâm hồn cộng hưởng/ cảm thụ như thế.

Tất cả thật “trữ tình”. Những rung cảm nhẹ nhàng, buổi chiều cuối năm vương vấn trên mái đầu, bờ vai đã phủ bóng thời gian/ chiều của đời người chăng? Một buổi chiều có nhớ, có xưa cũ, có chiêm ngắm rồi tiếc xót nhưng tất cả đều diễn tiến với điệu hồn nhẹ nhàng, đong đầy những lời cảm ơn, tạ từ.

Chủ thể cảm xúc xây dựng một không gian tâm tưởng “rất chiều”. Bước chân trải lặng ngược “thế lộ”, đi về phía “hoàng hôn”. Hành trình sắp đóng lại, tròn trịa và nhiều được/ mất…

Một hình ảnh đủ- đầy, là “nhãn tự” của khổ thơ: “dáng ta nghiêng”. Đó chăng là cái “cúi đầu” chiêm ngắm thế sự, nghiệm gió bụi hay là “tuổi tác” đã khiến ta gần đất hơn…Hiểu thế nào cũng ra cái nhận thức về nhân sinh: Vô thường.

Chiều cuối năm hun hút gió công viên

Con đường nhỏ đưa chân về lối cũ

Nơi mỗi chiều qua giữa đôi hàng liễu rũ

Bóng liễu nghiêng hay dáng ta nghiêng.

Câu thơ mở đầu đặt để giữa dòng từ tượng hình “hun hút” đã mở ra một không gian rất chiều, cực chiều và “siêu chiều”. Ta thấy thực sự đó là một chiều cuối năm và cũng là chiều năm cuối cùng… Mở ra nhiều chiều cảm/ hiểu. Chiều sâu: sâu tận ngày, tận đời, tận những bài học vỡ vạc...; chiều rộng: rộng của nỗi lòng mênh mang, rộng dài miền kí ức, sự kết nối miên viễn giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Và chiều dài của những lối/ đường đã đi, những trải nghiệm nhân sinh, những cuộc “thập trải phong trần”, đường đời gian truân… Không gian ngoại cảnh và không gian tâm tưởng đan cài, lồng ghép tạo nên một bức tranh chiều “u nhã”.

Cây ngút xanh chiều ráng lung liêng

Hồ soi bóng giật mình tóc điểm bạc,

Qua rồi chăng một thời khao khát

Ôm trọn đất, trời mỗi ban mai.

Đường đưa chân về lối cũ hay chân tự tìm về? Tác giả trở nên “hoài cựu”. Cái “hoài cựu” của một con người đã thấm thía, lưu cất bao bài học thế thái nhân tình. Cho nên nay đã bước vào “con đường” trong tâm, đường tưởng nhớ về những gì đã qua. Bước chân đi trên lối “đó”, thấy quen thuộc, thấy “ngập ngừng yêu thương”. Thấy “cây ngút xanh”: Hình ảnh tái hiện thanh xuân vào buổi đẹp nhất, đậm màu nhất, nên xanh nhất nhưng “phủ liệm” “chiều ráng lung liêng” nên bất chợt “giật mình tóc điểm bạc”.

Và rồi nhà thơ nhận rõ “chân tướng” của thời điểm này, bối cảnh này: “Qua rồi…”. Câu thơ được viết dưới “hình thức” câu hỏi/ mệnh đề phủ định để “khẳng định” về sự đã mất đi, “mất mát” rồi cái thời trai trẻ mộng ước và hoài bão. Có “chút ít” đau, chút oán giận, chút tuyệt vọng. Và điểm nhìn đi từ “tiếng đàn lòng” buồn bã đến “lời cảm ơn” nhẹ nhàng, an yên với đời, với người:

Đã đi qua bao dặm đường dài

Đất lạ, xứ người từng nếm trải

Hoa đẹp cầm tay, tình người thơm thảo

Ta mang ơn đời hạnh phúc ấm vòng tay.

Giọng thơ không lưu đày, khiếp nhược, không “chán chường” cho nỗi thời gian “nhất khứ bất phục phản”. Cũng không “hô hét” đòi được một lần nữa thanh xuân. Giọng thơ với chất tự tình thấm lắng. Dùng thủ pháp “Tá khách hình chủ”: Ba câu đầu như để nâng đỡ cho câu cuối, đó là thông điệp đẹp đẽ về lẽ sống: Cảm ơn! “Ta mang ơn đời hạnh phúc ấm vòng tay”.

Tác giả nói về khoảnh khắc hạnh phúc ở đời là khoảnh khắc “những bàn tay nắm lấy những bàn tay”. Khoảnh khắc trao hơi ấm tình người. Tất nhiên! tác giả đã trải nghiệm sâu sắc cái nồng thắm trên đôi bàn tay rưng rưng vươn ra để giao hảo với đời đó. Ta dễ thấy “tấm lòng thiên hạ” nơi hồn thơ. Không khí thơ rất “thương”, rất “hiền hòa” và trong đẹp.

Đời cũng trao trên dặm dài xa ấy

Nỗi đớn đau rạn vỡ bạc vôi,

Tâm tốt nhầm nơi, tình trao lạc lối

Trắc ẩn đời người giấu vào nụ cười thôi…

Khổ tiếp theo “dặm” thêm cho hồn thơ hồn hậu chút tâm sự về được/ mất. Đôi tỏ tường cho xác đáng về “tính hai mặt” của cuộc sống và sự bất khiết, không thể tuyệt đối của vạn sự ở đời. Có sai nhầm, có bạc bẽo, có những ân hận. Nhưng sau tất cả, như một lời “biện bạch” hay “khuyên nhủ”: Hãy tha thứ bằng nụ cười cầu hòa. Nụ cười cảm thông, bao dung, lắng đọng.

Chiều cuối năm bấm bàn tay tính tuổi

Lòng rưng rưng số đốt đã nhiều,

Mình tự vấn mình, mình chợt hiểu

Còn đam mê con chữ chưa thành.

Hành động “bấm bàn tay tính tuổi” gợi một tư thái rất dân gian. Đó là “động tác” ảnh mặt phản ánh sự “nghiệm sinh” của những con người đã đi qua bao chặng đời giông bão/ đã như một “hàng cây tuổi tác”. Giờ đến độ đã “bình tĩnh”, đã lặng lẽ, đã không còn thắc mắc, mơ tưởng, đay đả đời sống nữa. Nên lúc này mới rảnh tay mà đưa lên đếm đốt.

Đưa vào thơ một ảnh tượng, một chi tiết mang tính dân gian, đời thường đã tạo ra một không gian nghệ thuật gần gũi, mộc mạc và trong bối cảnh ăm ắp cảm tình, hồn thơ đang tha thiết nhịp đập thời/ không đó có những “cử chỉ” thân thương đời thường của con người. Bỗng dưng ý thơ có màu tự sự mà vẫn rất nên thơ trữ tình. Cách diễn ngôn đó thật hay mà dụng ý nghệ thuật được hiệu quả.

Chủ thể trữ tình với hành trình cảm xúc càng đi về cuối bài thơ càng bộc lộ “cái đẹp” nơi tâm hồn. Nếu ở trên dường như đã “buông”. Thì đến lúc này hồn thơ thực lòng bộc lộ một chút gì đó của “lòng tham”: Tham sống đẹp, tham yêu cuộc sống, thơ ca và chữ nghĩa. Luôn cảm giác chưa đặng trọn vẹn, chưa thỏa đam mê.

Và rồi không thể “ngưng đọng”, phải tiếp diễn cái đẹp đã khởi sinh, tồn tại, song hành để làm đẹp, làm đầy mình. Cái đẹp lưu động chảy mãi trong huyết quản và ta phải tiếp tục hành trình của “yêu thương”.

Nhưng chỉ là “mong” chứ không có “vọng tưởng”… Chữ “mong” đặt trong tâm thế nhẹ tựa cánh hoa. Con đường đấu tranh, giành giật, con đường giằng co thiện/ ác có thể chất đứt. Nhưng riêng con đường chân lý và cái đẹp. Con đường thơ ca và chữ nghĩa thì sẽ đi đến “lộ cùng”. Đi với tâm thế “mãi miết” chứ không phải vay chút vui qua ngày. Đi để cho đời lên hương, lên thì và rồi xuân sẽ thắm lại trong từng trang, từng lời, từng nốt nhạc, vần thơ.

Lòng tự nhủ lòng như vậy, bao lần

Máu còn chảy trong tim mình thao thiết

Thì vẫn đi trên đường đời mãi miết

Mong có ngày Xuân lại nở trên tay…

Chiều cuối năm đẹp “nhã nhặn”. Rồi dòng máu tình thơ sẽ mở ra một mùa xuân. Mùa xuân nơi những tâm hồn luôn tha thiết được cho đi những ấm áp từ trái tim qua đôi tay lặng lẽ, chiêm bái cuộc đời…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm