TIN TỨC

Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-11-05 06:55:51
mail facebook google pos stwis
718 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Đào Phong Lan là một tài thơ thiên bẩm. Chị làm thơ khi còn tung tăng chân sáo một cô bé ở phố núi Pleiku. Vào học khóa 5 của Trường viết văn Nguyễn Du, chị có tập thơ “Giêng hai” in năm 1995, lúc tròn 20 tuổi. Đào Phong Lan có kiểu viết lục bát mềm mại, câu sáu rưng rưng, câu tám nghẹn ngào: “Giêng Hai trời lất phất mưa/ Trăng không đủ sáng để đưa nhau về/ Dại khờ hái cỏ ven đê/ Buộc ngang lưng một câu thề làm tin”. Đó là giọng điệu thật nữ tính, rất dễ khiến người khác si mê nhung nhớ và rất dễ khiến bản thân hao mòn cảm xúc.


Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn tại buổi ra mắt sách “Em không thể nói lời từ biệt”


Cầm tấm bằng cử nhân, chuyển từ Hà Nội vào Sài Gòn sinh sống, Đào Phong Lan đột ngột rời khỏi thi đàn. Suốt nhiều năm, chị không lui tới các hoạt động văn chương ở đô thị phương Nam. Hình như chị ưu tiên dành thời gian vun vén kinh tế gia đình. Chọn lựa ấy cũng hợp tình hợp lý. Nhà thơ không thể viển vông mơ mộng trong cơ chế thị trường. Thỉnh thoảng tôi có gặp chị giữa những con phố chen lấn ồn ào, vẫn nụ cười duyên dáng, vẫn ánh mắt xôn xao. Cái cốt cách ấy, dễ gì bỏ viết lách được. Tôi tin vậy, và quả nhiên, tôi không phải suy đoán hồ đồ.

Sau hơn hai thập niên vắng bóng, Đào Phong Lan tái xuất bằng tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”, do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn vừa ấn hành. Tập thơ 56 bài, chia làm bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông nhưng thực chất chỉ có một mùa: Mùa Yêu, của một phụ nữ tự thú “Hồn ta mềm như cỏ/ Chưa gió về đã lay” không thể từ biệt nhân duyên và không thể từ biệt thi ca.

Những ai từng ưa thích thơ Đào Phong Lan trước đây, sẽ nguyên vẹn xao xuyến khi đọc “Em không thể nói lời từ biệt”. Thời điểm sáng tác được ghi chú cụ thể dưới mỗi bài thơ, chứng tỏ Đào Phong Lan rất ý thức về dấu vết ân tình của từng kỷ niệm. Theo tôi, tập thơ này có thể xem như một cuộc tuyển lựa của riêng chị, có giới thiệu Đào Phong Lan mới mà cũng có hoài vọng Đào Phong Lan cũ. Và dù bài thơ viết năm 2015 hay bài thơ viết năm 1991, thì độc giả vẫn nhận ra Đào Phong Lan luôn luôn mong manh giữa run rẩy đang có và bịn rịn sắp phai. Nghĩa là, trong sự giăng mắc tình tính tang và tình tính... tan, chân dung Đào Phong Lan hiện ra thảng thốt: “Nếu như anh quay đầu nhìn lại/ Xác lá vàng rơi lấp dấu em xưa”.

Thơ Đào Phong Lan giàu nhạc tính. Chữ nối chữ có âm thanh, câu nối câu có giai điệu. Đoạn ngắn ngân nga có thể ngâm, đoạn dài trầm bổng có thể hát. Ngoài những vần lục bát dan díu “Người ta khoác áo trầm hương/ Bỏ nhau/ Đi ngược con đường heo may”, tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt” cho thấy Đào Phong Lan cũng thừa khả năng dùng những thể loại thơ khác để phơi bày sự bất an của một người đàn bà yếu đuối. Dẫu đã minh định “Tình yêu như là bọt nước/ Vỡ trên năm ngón tay mềm/ Chỉ trái tim là dại dột/ Chẳng bao giờ chịu lãng quên”, vẫn cứ phấp phổng tơ vương “Lòng như hạt mầm trong đất/ Nằm chờ mong một cơn mưa/ Người đi qua như nắng gắt/ Hanh khô, hạn hán bốn mùa”.

Tình yêu trong thơ Đào Phong Lan thường xuyên chấp chới đổ vỡ. Níu kéo đấy, mà không trách than. Buồn đau đấy, mà không oán hận. Thơ chị buông bắt khoảnh khắc “Sông quá rộng mà sao lòng quá hẹp/ Trời bao la mà gió chật khu vườn để được nuối tiếc “Bóng em khuất sau cánh cửa/ Khép một nỗi buồn nhân đôi” và để được trìu mến “Từng trái thơm rung như chuông trong lá/ Đánh thức em ngơ ngác một ban mai”.

Bài thơ có dung lượng lớn nhất và cũng để lại dư vị nhất trong tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt” là “Viết cho anh những ngày xa”. Bài thơ sáng tác năm 2005, chia làm 4 khúc. Đào Phong Lan lúc ấy 30 tuổi, vẫn còn trẻ trung để khao khát và đã đủ trải nghiệm để bao dung: “Em lầm lụi đi trên con đường tối/ Ngõ vắng xa/ Hoa mướp đã thôi vàng”. Bước thơ dùng dằng nhưng mạch thơ không rời rạc giúp bung được ý thơ xa vắng: “Không có anh/ Sao quá chừng phẳng lặng/ Quá chừng mưa trên những tán lá bàng/ Quá chừng rơi những thảm hoa vàng/ Quá chừng hát những bài lâu không hát. Hai chữ “quá chừng” nghe có vẻ xuôi tai mà lại thành đắc địa cho một lời cảnh tỉnh: “Ngày mai khi chúng mình gặp lại/ Có thể là em đã khác hôm nay”.

Đọc tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”, tôi bỗng ích kỷ nhói lên một sự vui mừng. Vui vì Đào Phong Lan trở lại với thi ca, để chị tiếp tục theo đuổi đam mê. Mừng vì thi ca không buông tha Đào Phong Lan, để tôi tiếp tục có bạn đồng hành.

26/10/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm