TIN TỨC

Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-11-05 06:55:24
mail facebook google pos stwis
2037 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Đào Phong Lan là một tài thơ thiên bẩm. Chị làm thơ khi còn tung tăng chân sáo một cô bé ở phố núi Pleiku. Vào học khóa 5 của Trường viết văn Nguyễn Du, chị có tập thơ “Giêng hai” in năm 1995, lúc tròn 20 tuổi. Đào Phong Lan có kiểu viết lục bát mềm mại, câu sáu rưng rưng, câu tám nghẹn ngào: “Giêng Hai trời lất phất mưa/ Trăng không đủ sáng để đưa nhau về/ Dại khờ hái cỏ ven đê/ Buộc ngang lưng một câu thề làm tin”. Đó là giọng điệu thật nữ tính, rất dễ khiến người khác si mê nhung nhớ và rất dễ khiến bản thân hao mòn cảm xúc.


Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn tại buổi ra mắt sách “Em không thể nói lời từ biệt”


Cầm tấm bằng cử nhân, chuyển từ Hà Nội vào Sài Gòn sinh sống, Đào Phong Lan đột ngột rời khỏi thi đàn. Suốt nhiều năm, chị không lui tới các hoạt động văn chương ở đô thị phương Nam. Hình như chị ưu tiên dành thời gian vun vén kinh tế gia đình. Chọn lựa ấy cũng hợp tình hợp lý. Nhà thơ không thể viển vông mơ mộng trong cơ chế thị trường. Thỉnh thoảng tôi có gặp chị giữa những con phố chen lấn ồn ào, vẫn nụ cười duyên dáng, vẫn ánh mắt xôn xao. Cái cốt cách ấy, dễ gì bỏ viết lách được. Tôi tin vậy, và quả nhiên, tôi không phải suy đoán hồ đồ.

Sau hơn hai thập niên vắng bóng, Đào Phong Lan tái xuất bằng tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”, do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn vừa ấn hành. Tập thơ 56 bài, chia làm bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông nhưng thực chất chỉ có một mùa: Mùa Yêu, của một phụ nữ tự thú “Hồn ta mềm như cỏ/ Chưa gió về đã lay” không thể từ biệt nhân duyên và không thể từ biệt thi ca.

Những ai từng ưa thích thơ Đào Phong Lan trước đây, sẽ nguyên vẹn xao xuyến khi đọc “Em không thể nói lời từ biệt”. Thời điểm sáng tác được ghi chú cụ thể dưới mỗi bài thơ, chứng tỏ Đào Phong Lan rất ý thức về dấu vết ân tình của từng kỷ niệm. Theo tôi, tập thơ này có thể xem như một cuộc tuyển lựa của riêng chị, có giới thiệu Đào Phong Lan mới mà cũng có hoài vọng Đào Phong Lan cũ. Và dù bài thơ viết năm 2015 hay bài thơ viết năm 1991, thì độc giả vẫn nhận ra Đào Phong Lan luôn luôn mong manh giữa run rẩy đang có và bịn rịn sắp phai. Nghĩa là, trong sự giăng mắc tình tính tang và tình tính... tan, chân dung Đào Phong Lan hiện ra thảng thốt: “Nếu như anh quay đầu nhìn lại/ Xác lá vàng rơi lấp dấu em xưa”.

Thơ Đào Phong Lan giàu nhạc tính. Chữ nối chữ có âm thanh, câu nối câu có giai điệu. Đoạn ngắn ngân nga có thể ngâm, đoạn dài trầm bổng có thể hát. Ngoài những vần lục bát dan díu “Người ta khoác áo trầm hương/ Bỏ nhau/ Đi ngược con đường heo may”, tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt” cho thấy Đào Phong Lan cũng thừa khả năng dùng những thể loại thơ khác để phơi bày sự bất an của một người đàn bà yếu đuối. Dẫu đã minh định “Tình yêu như là bọt nước/ Vỡ trên năm ngón tay mềm/ Chỉ trái tim là dại dột/ Chẳng bao giờ chịu lãng quên”, vẫn cứ phấp phổng tơ vương “Lòng như hạt mầm trong đất/ Nằm chờ mong một cơn mưa/ Người đi qua như nắng gắt/ Hanh khô, hạn hán bốn mùa”.

Tình yêu trong thơ Đào Phong Lan thường xuyên chấp chới đổ vỡ. Níu kéo đấy, mà không trách than. Buồn đau đấy, mà không oán hận. Thơ chị buông bắt khoảnh khắc “Sông quá rộng mà sao lòng quá hẹp/ Trời bao la mà gió chật khu vườn để được nuối tiếc “Bóng em khuất sau cánh cửa/ Khép một nỗi buồn nhân đôi” và để được trìu mến “Từng trái thơm rung như chuông trong lá/ Đánh thức em ngơ ngác một ban mai”.

Bài thơ có dung lượng lớn nhất và cũng để lại dư vị nhất trong tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt” là “Viết cho anh những ngày xa”. Bài thơ sáng tác năm 2005, chia làm 4 khúc. Đào Phong Lan lúc ấy 30 tuổi, vẫn còn trẻ trung để khao khát và đã đủ trải nghiệm để bao dung: “Em lầm lụi đi trên con đường tối/ Ngõ vắng xa/ Hoa mướp đã thôi vàng”. Bước thơ dùng dằng nhưng mạch thơ không rời rạc giúp bung được ý thơ xa vắng: “Không có anh/ Sao quá chừng phẳng lặng/ Quá chừng mưa trên những tán lá bàng/ Quá chừng rơi những thảm hoa vàng/ Quá chừng hát những bài lâu không hát. Hai chữ “quá chừng” nghe có vẻ xuôi tai mà lại thành đắc địa cho một lời cảnh tỉnh: “Ngày mai khi chúng mình gặp lại/ Có thể là em đã khác hôm nay”.

Đọc tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”, tôi bỗng ích kỷ nhói lên một sự vui mừng. Vui vì Đào Phong Lan trở lại với thi ca, để chị tiếp tục theo đuổi đam mê. Mừng vì thi ca không buông tha Đào Phong Lan, để tôi tiếp tục có bạn đồng hành.

26/10/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm