TIN TỨC

Có một “Ngỡ” trong thơ Trần Mai Hường

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-10-28 18:10:09
mail facebook google pos stwis
910 lượt xem

Tôi bắt đầu nhận ra những trái ngược trong tính cách của con người, đặc biệt là những người đã đem tâm tư và cảm xúc của mình đặt trọn vẹn vào văn chương chữ nghĩa. Thơ muôn đời vẫn là tiếng nói của tình cảm và khi cảm xúc dạt dào thì thơ tự động cũng bật lên. Điều này, có rất nhiều người đã nói nhưng tôi vẫn muốn lặp đi lặp lại. Và cái “ngỡ” của Trần Mai Hường phần nào đã nói lên được điều ấy.

 

Nhà thơ Trần Mai Hường

Tôi tiếp xúc và đến với thơ chị như một sự đồng điệu văn chương rất tình cờ. Chị gửi cho tôi quyển “Ngược đêm” được NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 2014 với biết bao xúc cảm được nén được dồn vào trong từng câu chữ từng trang thơ. Thật vậy, như có sức hút lạ kỳ cuốn lấy tôi qua những câu thơ cháy bỏng. Tôi rất thích thơ chị nhưng cái làm cho tôi như một người say loạng choạng trong thế giới ấy là những bài thơ lục bát ngắn. Những bài thơ mà có lần chị tự bảo rằng là “lục bát dở hơi”. Lục bát ư? Thể thơ này đã quá quen thuộc với tất cả mọi người ngay từ thời nằm nôi nghe mẹ hát ru. Nhưng oái oăm, nàng là một thiếu nữ khó tính. Nàng có thể khoác lên người bất kỳ kiểu xiêm y nào từ chất phác hiền lành đến lộng lẫy kiêu sa nhưng để nàng thực sự tuyệt vời là điều vô cùng khó. Cái khó ấy được Trần Mai Hường chế ngự một cách tài tình và khéo léo. Đơn giản là cảm xúc.

“Ngỡ” chiễm chệ ở vị trí thứ sáu trong tuyển tập “Ngược đêm” của chị một cách quyến rũ và đầy hấp dẫn. Trong thời đại ra ngõ gặp nhà thơ như bây giờ thì khó lòng tìm thấy được một người tâm huyết với sân chơi văn chương. Tôi ngán ngẫm với kiểu viết dài, tràn lan với hỗn tạp cảm xúc ở phần đông tác giả thơ hiện nay. “Ngỡ” đã khắc phục được điều đó. Không dài mà đủ dài để người đọc nâng niu lưu giữ. Hãy bắt đầu đi tìm cái “ngỡ” của chị trong bài thơ nhỏ nhắn này.

Mở đầu bài thơ như một sự nhẹ nhàng, một sự êm đềm chấp nhận, nghe mong manh như một lời thủ thỉ với chính mình.

“Ừ xa mình đã xa rồi

ừ quên em cũng giống người đã quên”

Lời thơ như một sự chấp nhận gượng ép làm ta nghe có chút gì tiếc nuối luyến lưu. Nhịp thơ như lôi kéo người đọc đến gần hơn với lối ngắt 2/4 “ừ xa/mình đã xa rồi” bước đầu đã tạo ra sự hấp dẫn hơn so với kiểu ngắt nhịp truyền thống. Đôi lúc tôi bâng khuâng tự hỏi không biết chị có dụng ý này không “ừ/xa/mình đã xa rồi” nghe mạnh mẽ, táo bạo nhưng ngắt theo kiểu này thì âm điệu câu thơ bị gãy, độ thiết tha mềm mại bị lung lay. “Ừ quên em cũng như người đã quên” đây là câu thơ mang đầy đặn tính ỡm ờ làm cho người đọc hoài nghi. Quên ư? Chưa hẳn là quên đâu. Nhưng còn nếu nói nhớ thì có cái gì đó xót xa, tê tê bủa vây trên bờ môi. Chữ “cũng như” thật đắt trong tình huống này. Nhịp ngắt của câu thơ “ừ quên/em cũng như người/ đã quên” thì rõ ràng có sự trách hờn thoáng hiện lên. Trần Mai Hường là thế, không muốn chính mình chỉ rõ ra, chị nói mình “thua” thì thật ra chị “chưa thua” thậm chí còn “thắng” nữa là đằng khác. Thì ở đây cũng vậy, chẳng ai thấy chị “quên” dù ít nhiều chị có bảo rằng “đã quên”. Ẩn chứa trong câu thơ một nỗi niềm lạnh lẽo, hời hợt đến nao lòng “em cũng như người đã quên”, người ta đã quên rồi thì mình cũng dặn lòng cố mà quên đi chứ thật ra mình có muốn quên bao giờ.

Hai câu kết thúc bài thơ lại đem đến một hình ảnh khác về cái nhớ cái quên

“chiều nay nỗi nhớ dậy men

uống ngày xưa đến say mèm người ơi.”

Đến lúc này thì mọi việc đã dỡ lẽ ra, quên ư? không bao giờ. Giống như cái cách của chị mà thường biểu lộ. Rượu hay bất kỳ thứ gì đi chăng nữa thì ủ lâu ngày mới lên men, khi lên men thì đã đậm đà, đủ độ mặn mòi để chinh phục giác quan con người.

Hóa ra nỗi nhớ đã âm thầm dai dẳng theo người, nó âm ỉ trong tâm hồn để bây giờ nó trỗi lên như một điều tất yếu. Chữ “dậy men” đã lấn át đi những con chữ còn lại trong câu thơ này. Quả thật, một phép so sánh độc đáo “nỗi nhớ” khi đến tột cùng thì y như rượu “dậy men”. Ý niệm nhớ - quên được Trần Mai Hường khai thác một cách sâu sắc. Và khép lại bài thơ là hành động “uống ngày xưa đến say mèm người ơi”, một lần nữa cho thấy chẳng những khả năng diễn đạt cảm xúc rất tinh tế mà kỹ thuật chọn lọc ngôn từ của chị cũng cực kỳ sắc sảo.

Nhịp lục bát đã thay đổi “uống ngày xưa/đến say mèm/người ơi” tạo nên một dấu ấn đậm nét trong lục bát Trần Mai Hường. Uống lấy ngày xưa, hình ảnh thật đầy ấn tượng, gom cả không gian, thời gian mà trói lại rồi trút cạn. Quá khứ đâu, dĩ vãng đâu, kỷ niệm một thời bên nhau đâu, tất cả hãy tan vào nhau để cạn một lần rồi quên. Nhưng khổ nỗi có quên được đâu! Người đời là cho rằng kẻ say sẽ chẳng nhớ được điều gì? Sai lầm. Họ nhớ kỹ hơn rất nhiều những gì họ cố giấu che đi ở ngày thường. Thì đây, nhà thơ Trần Mai Hường đã đem lại cho ta cái hình ảnh ấy. Uống “đến say mèm”, khi say mèm là khi đó nỗi nhớ đã thống trị trên ngai vàng cảm xúc. Ai trách người say nói năng, hành động bao giờ. Khi say mèm thì con người có thể thốt lên rằng tôi nhớ lắm, tôi nhớ quá mà chẳng sợ mình còn bị ràng buộc điều chi. Chi tiết “say mèm” là chi tiết trở về với cảm xúc thật, cảm xúc tầm thường vốn có của con người. Cái hay nằm ở chỗ ấy.

Chỉ có bốn câu nhưng “Ngỡ” đã đem đến chúng ta đậm đặc nỗi niềm nhớ - quên. Bây giờ xét đến “ngỡ”. Lạ quá, sao là ngỡ? Ý nghĩa gì nếu không phải là “ngỡ” quên mà lại nhớ. Thế đấy, văn chương có cái hấp dẫn, thú vị mà ta càng đi tìm thì ta càng lại thấy mình càng nhỏ bé, hạn hẹp. Biết đâu, có một độc giả nào khác có cách hiểu khác so với tôi thậm chí là sai lệch hẳn với những góc nhìn của tôi nhưng không sao, văn chương mà. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng về thơ, đâu có thể buộc họ phải khư khư hiểu theo cách của mình. Trước khi kết thúc, tôi muốn nói rằng, văn chương đã có một Trần Mai Hường, Trần Mai Hường đã có một Ngược đêm và Ngược đêm đã có một Ngỡ, thế thôi.

Phan Duy

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm